Thời sự
Cải cách hành chính góp phần xây dựng nền hành chính hiện đại, hiệu quả, phục vụ
Tú Ân - 18/12/2025 17:52
Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Văn Hồi trình bày Báo cáo kết quả thực hiện cải cách hành chính giai đoạn 2022-2025 và các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm giai đoạn 2026-2030.

Tại Hội nghị Sơ kết 1 năm triển khai chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW, 5 năm thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước, 4 năm triển khai Đề án 06, Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Văn Hồi trình bày Báo cáo kết quả thực hiện cải cách hành chính giai đoạn 2022-2025 và các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm giai đoạn 2026-2030.

Kết quả thực hiện cải cách hành chính giai đoạn 2022-2025

Về cải cách thể chế, theo Thứ trưởng Nguyễn Văn Hồi, từ đầu nhiệm kỳ đến tháng 12/2025, Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua 235 luật, pháp lệnh, nghị quyết. Riêng năm 2025, Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua 99 văn bản (gồm 78 luật và 21 nghị quyết); đã ban hành theo thẩm quyền hơn 870 nghị định, trung bình hơn 170 nghị định/năm.

Ở địa phương, giai đoạn 2021 - 2025 các địa phương đã ban hành hơn 48.000 văn bản, trong đó, cấp tỉnh ban hành 2.875 văn bản quy phạm pháp luật, cấp huyện (cũ) ban hành 10.250 và cấp xã (cũ) ban hành 9.078.

Công tác thi hành pháp luật được đẩy mạnh, giảm nợ đọng văn bản quy định chi tiết, kịp thời sửa đổi để tháo gỡ vướng mắc trong đầu tư, sản xuất, đời sống, khắc phục bất cập về đất đai, tài sản công, tài chính, chứng khoán, giảm TTHC, ứng dụng CSDL quốc gia về dân cư.

Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được đổi mới, ứng dụng công nghệ thông tin, vận hành Cổng Pháp luật quốc gia từ 31/5/2025; truyền thông chính sách được chú trọng.

Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Văn Hồi cáo cáo tại Hội nghị. Ảnh: VGP.

Về cải cách thủ tục hành chính, các bộ, ngành đã cắt giảm, đơn giản hóa 3.241/15.763 quy định kinh doanh (đạt 20,5%) tại 275 văn bản quy phạm pháp luật theo quy định tại Nghị định 68/NQ-CP đáp ứng mục tiêu đề ra của Chương trình tổng thể với nhiều quy định đã được cải cách mạnh mẽ mang lại hiệu quả thiết thực.

Thực hiện Nghị quyết số 66/NQ-CP, đến 30/11/2025, dự kiến cắt giảm 3.085/4.888 thủ tục hành chính (đạt 63,1%) và cắt giảm 2.371/6.974 điều kiện kinh doanh thuộc ngành, nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện (dự kiến đạt 34,9%).

Thời gian giải quyết TTHC dự kiến sẽ cắt giảm là 29.308 ngày/89.721 ngày (đạt 32,7% thời gian thực hiện TTHC) và cắt giảm chi phí tuân thủ TTHC khoảng 48,6/120.000 tỷ đồng/năm (đạt 40,5%).

Đã phân cấp 490/699 TTHC (đạt 70%), còn 209 thủ tục tiếp tục thực hiện; đồng thời phân định thẩm quyền giải quyết tổng cộng 748 thủ tục cho cấp tỉnh và 268 thủ tục cho cấp xã.

Đến 30/11/2025 đã cắt giảm 1.055/1.084 thủ tục (đạt 97% tổng số thủ tục phải rà soát), còn 29 thủ tục tiếp tục thực hiện; đối với Phiếu lý lịch tư pháp đã cắt giảm 66/108 thủ tục (đạt 61%), còn 42 thủ tục đang tiếp tục triển khai theo phương án được phê duyệt.

Thực hiện Nghị định số 118/2025/NĐ-CP, cho đến nay, 32/34 địa phương thành lập 3.139 Trung tâm Phục vụ hành chính công cấp xã, tổng 24.382 nhân sự (bình quân 6 người/trung tâm). Thành phố Hà Nội và tỉnh Quảng Ninh vận hành theo mô hình Trung tâm phục vụ hành chính công một cấp và tổ chức các chi nhánh hoặc Điểm phục vụ hành chính công. Từ 01/7-30/11/2025 tiếp nhận 21,8 triệu hồ sơ, trong đó 18,4 triệu trực tuyến. 34/34 địa phương công bố TTHC “không phụ thuộc địa giới”, 10 địa phương đạt 100% theo Nghị quyết 66/NQ-CP.

Về cải cách tổ chức bộ máy, giai đoạn 2021 - 2025, các cơ quan hành chính triển khai quyết liệt các chủ trương của Đảng về sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn gắn với tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ.

Chính phủ ban hành 31 văn bản chỉ đạo tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW và thực hiện sắp xếp bộ máy. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã ban hành theo thẩm quyền 10 nghị định về tổ chức bộ máy, 02 nghị định về tinh giản biên chế; 02 nghị định về chế độ, chính sách cho cán bộ, công chức, viên chức khi sắp xếp bộ máy.

Từ tháng 3/2025 cơ cấu Chính phủ khóa XV (2021 - 2026) được sắp xếp tinh gọn còn 14 bộ, 03 cơ quan ngang bộ (giảm 05 bộ, cơ quan ngang bộ, tương ứng giảm 22,7%); 05 cơ quan thuộc Chính phủ (giảm 03 cơ quan, tương ứng giảm 37,5%). Tổ chức bên trong các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ đã giảm 13 tổng cục và tổ chức tương đương; giảm 509 cục và tổ chức tương đương; giảm 231 vụ và tổ chức tương đương; giảm 3.377 chi cục và tương đương chi cục; giảm 82/224 đơn vị sự nghiệp công lập trong cơ cấu tổ chức quy định tại các nghị định của Chính phủ.

Tại địa phương: Cả nước còn 34 tỉnh, thành phố, giảm 29 đơn vị hành chính (ĐVHC), tương ứng với 46%; theo 34 Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về sắp xếp ĐVHC cấp xã, từ 01/7/2025 cả nước giảm 6.714 ĐVHC cấp xã, tương ứng với 66,91% (bảo đảm tỷ lệ giảm theo quy định của Trung ương là từ 60% - 70%, từ 10.035 ĐVHC cấp xã xuống còn 3.321 ĐVHC cấp xã - bao gồm 2.621 xã, 687 phường và 13 đặc khu).

Các địa phương cũng đã giảm 710 cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, giảm 8.289 cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện (giảm 100%). Thành lập 466 cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, 9.916 phòng chuyên môn thuộc UBND 3.321 xã, phường, đặc khu.

Giai đoạn 2022 - 2026: Biên chế công chức giao là 101.509 biên chế, giảm 5,03% so với năm 2021. Biên chế viên chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước đã thẩm định là 101.356 biên chế, giảm 15,17% so với năm 2021.

Đến 31/12/2023, tổng số đơn vị sự nghiệp công lập là 47.596, giảm 846 đơn vị so với 2021, giai đoạn 2015 - 2023 giảm 8.295 đơn vị.

Về cải cách chế độ công vụ, từ năm 2021 đến 8/2025, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua 7 nghị quyết; Chính phủ ban hành 29 nghị định về chế độ công vụ, công chức. Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua Luật Cán bộ, công chức sửa đổi đánh dấu bước tiến mới trong đổi mới cơ chế quản lý, sử dụng cán bộ, công chức, tăng cường công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình.

Giai đoạn từ 2021 - 7/2025 các bộ, ngành và địa phương tuyển dụng tổng cộng trên 209.000 cán bộ, công chức, viên chức, trong đó hơn 4.600 trường hợp theo chính sách thu hút nhân tài.

Giai đoạn 2020-2022, khoảng 90% công chức được cập nhật kiến thức pháp luật, 85% được bồi dưỡng đạo đức công vụ và 80% được nâng cao kỹ năng thực thi nhiệm vụ.

Theo báo cáo của 34 tỉnh, thành phố, hiện nay, có 136.261 cán bộ, công chức (khối chính quyền) đang công tác tại 3.321 xã, phường, đặc khu, bình quân 41 người/cấp xã, trong đó 94,6% cán bộ, công chức có trình độ và chuyên môn phù hợp với vị trí việc làm.

Cải cách chế độ tiền lương, cải cách chính sách bảo hiểm xã hội có nhiều chuyển biến tích cực. 100% bộ, ngành và địa phương đã hoàn thành việc kết nối, đồng bộ dữ liệu với CSDL quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức.

Về cải cách tài chính công, giai đoạn 2021 - 2025, thu NSNN ước thu đạt khoảng 9,59 triệu tỷ đồng. Tỉ lệ huy động vào NSNN giai đoạn 2021-2025 bình quân khoảng 18,3% GDP (mục tiêu đề ra là 16%GDP).

Tính đến hết tháng 10 năm 2025, cả nước có khoảng 954 doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp Khoa học và công nghệ.

Giai đoạn 2014 - 2025 có 100% đơn vị cấp trung ương, trên 98% cấp tỉnh, gần 96% cấp huyện (cũ) và hơn 72% cấp xã (cũ) thực hiện tự chủ, tỷ lệ kinh phí tự chủ bình quân khoảng 72,94%, tỷ lệ tiết kiệm chi 6%-8%.

Tiếp tục xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, có năng lực kiến tạo phát triển, liêm chính, phục vụ nhân dân, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.

Những tồn tại, hạn chế

Theo đánh giá của Bộ Nội vụ, cải cách hành chính trên một số lĩnh vực vẫn phức tạp, rườm rà; phát sinh tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp; liên thông, kết nối giữa các cơ sở dữ liệu, số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC, thanh toán trực tuyến chưa đáp ứng mục tiêu đề ra.

Chất lượng, cơ cấu cán bộ, công chức, viên chức ở một số cơ quan, đơn vị, đặc biệt cấp xã mới chưa đáp ứng yêu cầu; có tình trạng vừa thừa, vừa thiếu công chức có chuyên môn, năng lực; công tác đánh giá còn hình thức, kỷ luật, kỷ cương hành chính chưa nghiêm; đạo đức công vụ ở một số chỗ chưa tốt, thiếu trách nhiệm khi giải quyết công việc.

Hiệu quả sử dụng ngân sách, vốn đầu tư công chưa cao; thực hiện tự chủ tài chính ĐVSNCL còn chậm, chưa đồng bộ giữa tự chủ nhiệm vụ, tổ chức, biên chế và tài chính; phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ chưa có bước chuyển biến mang tính đột phá.

Cơ sở vật chất, trang thiết bị nhiều xã mới còn bất cập. Số trụ sở dôi dư sau sắp xếp chính quyền địa phương 2 cấp còn nhiều, chưa giải quyết hết.

Triển khai Chính phủ điện tử, Chính phủ số còn thiếu đồng bộ; CSDL quốc gia, chuyên ngành triển khai chậm; hạ tầng kết nối, chia sẻ dữ liệu còn hạn chế; dịch vụ công trực tuyến chưa thuận tiện, một số còn trục trặc.

Tin liên quan
Tin khác