Doanh nghiệp
EVFTA làm tăng cạnh tranh của doanh nghiệp Đức tại Việt Nam
Hải Yến - 10/06/2022 11:44
Hơn 73% doanh nghiệp Đức tin rằng việc triển khai Hiệp định Thương mại tự do giữa Liên minh châu Âu và Việt Nam (EVFTA) làm tăng khả năng cạnh tranh của họ tại Việt Nam.

Theo khảo sát của Phòng Công nghiệp và Thương mại Đức tại Việt Nam (AHK tại Việt Nam), doanh nghiệp Đức tại Việt Nam tin tưởng vào triển vọng kinh doanh và kỳ vọng tích cực vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam, với gần 93% doanh nghiệp cho biết họ sẽ tiếp tục đầu tư vào Việt Nam và hơn 64% kỳ vọng hoạt động kinh doanh sẽ phát triển tốt hơn trong 12 tháng tới. 

Kỳ vọng cua doanh nghiệp Đức vào tăng trưởng kinhy tế Việt Nam.


Việc mở cửa biên giới và các chính sách quyết liệt và kịp thời của chính phủ Việt Nam tạo động lực cho phục hồi kinh tế sau đại dịch. Doanh nghiệp Đức lạc quan hơn về triển vọng phát triển kinh tế trong 12 tháng tới so với thời điểm mùa thu năm 2021.

Các doanh nghiệp Đức tại Việt Nam đang hoạt động trong nhiều ngành và lĩnh vực khác nhau: dịch vụ (46,4%), công nghiệp/ xây dựng (39,3%), và thương mại (14,3%). Các doanh nghiệp nhỏ có ít hơn 100 nhân viên chiếm 64,3%. Các doanh nghiệp tầm trung với lượng nhân viên không quá 1.000 người chiếm 7,1% và 28,6% đến từ doanh nghiệp lớn với hơn 1.000 nhân viên.

Hơn 46% doanh nghiệp có kế hoạch tuyển dụng thêm lao động trong năm tới. Doanh nghiệp Đức tham gia khảo sát cũng bày tỏ rằng các yếu tố quan trọng nhất đối với quyết định đầu tư và kinh doanh của họ ở Việt Nam là tình hình chính trị ổn định, có nguồn nhân lực chất lượng cao trong các ngành kỹ thuật và các nhóm ngành khác, và vận tải và logistics.

Về tận dụng cơ hội từ Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), kết quả khảo sát cho biết, 73% doanh nghiệp Đức tin rằng việc triển khai EVFTA giữa EU và Việt Nam làm tăng khả năng cạnh tranh của họ tại Việt Nam.

Thứ nhất, EVFTA giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của các nhà xuất khẩu Đức tại thị trường Việt Nam. Hiệp định xóa bỏ hơn 99% thuế quan.

Thêm vào đó, EVFTA tăng khả năng cạnh tranh của Việt Nam trong vai trò là thị trường cung ứng. Trên thực tế, trước khi EVFTA có hiệu lực, các công ty có thể xuất khẩu theo quy định trong chương trình Ưu đãi thuế quan phổ cấp (GSP) của EU.

Các doanh nghiệp cũng nhấn mạnh, thực thi các FTA trong đó có EVFTA cũng giúp Việt Nam có điều kiện thuận lợi để thu hút dòng vốn đầu tư từ nước ngoài. Những mối nguy trên toàn cầu đang khiến triển vọng kinh tế và kinh doanh xấu đi, nhưng Việt Nam cũng có nhiều lợi thế để gia tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường cung ứng thế giới.

Bản thân các doanh nghiệp Đức thường xuyên tận dụng Hiệp định Thương mại Tự do giữa ASEAN và Trung Quốc (ACFTA) và Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Khi triển khai hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, doanh nghiệp Đức đánh giá những yếu tố sau là quan trọng nhất: có nguồn nhân lực chất lượng cao trong các ngành kỹ thuật (58,3%), chất lượng giáo dục của các ngành kỹ thuật (58.3%), và hàng rào thương mại thuế quan (56,5%).

Các doanh nghiệp Đức cũng bày tỏ lo ngại về xung đột Nga - Ukraine và những bất ổn trên toàn cầu đe dọa làm gia tăng chi phí năng lượng, nguyên liệu đầu vào và gây đứt gãy chuỗi cung ứng. Điều này có thể dẫn đến những thay đổi trong hoạt động đầu tư quốc tế của các doanh nghiệp ngoại.

Tuy nhiên, Việt Nam cũng có thể tận dụng sự chuyển dịch này khi các doanh nghiệp nước ngoài sắp xếp lại chuỗi cung ứng. Những hiệp định thương mại tự do cũng giúp tăng khả năng cạnh tranh của Việt Nam trong vai trò là thị trường cung ứng.

"Dù doanh nghiệp Đức thể hiện khả năng chống chịu trong giai đoạn phục hồi sau đại dịch, họ vẫn đang đối mặt với những rủi ro và thách thức do các bất ổn trên toàn cầu", Đại diện AHK tại Việt Nam nhận định.

Cụ thể, 74,1% doanh nghiệp Đức tại Việt Nam được hỏi cho rằng xung đột Nga - Ukraine sẽ dẫn tới chi phí năng lượng, nguyên liệu thô đầu vào cao hơn. 2 mối lo ngại lớn khác là tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng (55,6%) và thiếu nguyên vật liệu cho sản xuất (25,9%).

Chi phí năng lượng và nguyên liệu thô tăng cao cùng với sự gián đoạn chuỗi cung ứng và logistics là những vấn đề đáng lo ngại nhất. Điều này dẫn đến những thay đổi trong hoạt động đầu tư kinh doanh quốc tế của họ như điều chỉnh đánh giá rủi ro về địa điểm và tách rời tương quan (decoupling) giữa các khu vực trên thế giới.

Tin liên quan
Tin khác