Trong đó, nội dung cơ bản của dự thảo Nghị định là điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế xuất khẩu của mặt hàng vàng trang sức, mỹ nghệ thuộc 04 mã 7113.19.10, 7113.19.90, 7114.19.00, 7115.90.10 từ mức 1% xuống 0%. Hiện các mặt hàng này đang có chung mức thuế suất thuế xuất khẩu 1%.
Theo số liệu thống kê của Cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này tại cả 4 mã hàng năm 2024 là 332,2 triệu USD, giảm 4,95% so với năm 2023 (349,5 triệu USD). Trong đó, 3/4 mã hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng.
Cụ thể, năm 2024, kim ngạch xuất khẩu mã 7113.19.10 (bộ phận của đồ trang sức) là 11,9 triệu USD (tăng 24%); kim ngạch xuất khẩu mã 7113.19.90 (đồ trang sức) là 317,9 triệu USD (tăng 50,7%); kim ngạch xuất khẩu mã 7114.19.00 (đồ kỹ nghệ và bộ phận của đồ kỹ nghệ) là 1,8 triệu USD (giảm 98,6%); kim ngạch xuất khẩu mã 7115.90.10 (các sản phẩm khác bằng vàng hoặc bạc) là 502.000 USD (tăng 13,6%).
Để hỗ trợ cho ngành sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ trong nước, tại Nghị định số 26/2023/NĐ-CP đã quy định mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi 0% đối với mặt hàng vàng chưa gia công (vàng nguyên liệu) nhằm giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo thông tin của Ngân hàng Nhà nước, chưa có doanh nghiệp nào được cấp phép nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ từ năm 2012 đến nay.
Theo đó, để thực hiện chỉ đạo của Tổng Bí thư tại Thông báo số 211-TB/VPTW và Thường trực Chính phủ tại Thông báo số 300/TB-VPCP, đồng thời để hỗ trợ giảm chi phí cho doanh nghiệp kinh doanh, xuất khẩu vàng trang sức, mỹ nghệ, tăng sức cạnh tranh của mặt hàng vàng trang sức, mỹ nghệ của Việt Nam trên thị trường quốc tế trong bối cảnh khó khăn do nguồn vàng nguyên liệu đầu vào hạn chế và giá cả tăng cao, qua đó góp phần thúc đẩy chuyển hóa vàng tích trữ thành sản phẩm có giá trị gia tăng, Bộ Tài chính trình Chính phủ điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế xuất khẩu của mặt hàng vàng trang sức, mỹ nghệ thuộc 04 mã 7113.19.10, 7113.19.90, 7114.19.00, 7115.90.10 từ 1% xuống 0%.
Theo tờ trình của Chính phủ, ngành vàng nói chung và vàng trang sức, mỹ nghệ nói riêng thời gian qua có nhiều biến động về giá cả và cung cầu trên cả thị trường trong nước và quốc tế. Tính trung bình quý I/2025, giá vàng thế giới tăng khoảng 38% - 39% so với cùng kỳ năm 2024 .
Tại Việt Nam, theo số liệu của Cục Thống kê, từ đầu năm 2025, chỉ số giá vàng trong nước so với tháng liền kề trước đó và so với cùng kỳ năm trước đều liên tục tăng mạnh. Cụ thể, so với tháng liền kề trước đó, chỉ số giá vàng tháng 2/2025 tăng 4,72%, tháng 3/2025 tăng 4,68%, tháng 4/2025 tăng 10,54%, tháng 5/2025 tăng 10,47%, riêng tháng 6/2025 chỉ số giá vàng trong nước giảm nhẹ 1,27%. So với cùng kỳ năm trước, mức tăng lần lượt qua các tháng là 32,57%, 32,68%, 37,14%, 45,95% và 48,01%. Bình quân quý II/2025 tăng 43,62% so với cùng kỳ năm trước, bình quân 6 tháng đầu năm 2025, chỉ số giá vàng tăng 37,4%.