Cuộc thi thuyền hàng năm làng Bạch Hạc tổ chức vào ngày rã hội trong kỳ hội từ mùng 10 - 13 |
Bạch Hạc chính là Phong Châu, kinh đô nước Văn lang đời Hùng Vương.
Bạch Hạc nằm bên tả ngạn của sông Lô, theo danh từ địa phương còn gọi là sông Thao, hướng về thành phô" Việt Trì. Muốn tới Bạch Hạc, du khách hoặc dùng tàu hỏa, đường Hà Nội đi Lào Cai, đến ga Bạch Hạc, cách Hà Nội khoảng 70km, tàu hỏa sẽ ngừng nơi đây trước khi đi qua cầu sông Lô để sang Việt Trì, hoặc du khách có thể đi theo đường bộ, quốc lộ sô' 2 đường Hà Nội đi Tuyên Quang, Hà Giang, thẳng tới Bạch Hạc, quốc lộ sô" 2 cũng đi qua cầu Việt Trì trên sông Lô như đường sắt. Đình làng Bạch Hạc nhìn thẳng ra sông Lô, trên một khu đất cao vừa trang nghiêm vừa thanh tịnh. Nơi đây thờ Thổ Lệnh Đại Vương, một vị thiên tướng đã xuất hiện xuống đất Phong Châu vào đời nhà Đường.
Thần tích ghi: về đời Đường khi Lý Thường Minh làm Thứ sử Giao Châu, một hôm nhàn du đến đấy ngắm phong cảnh, nằm mơ thấy từ trên trời bay xuống hai thiên tướng. Hai thiên tướng này là hai anh em ruột. Lý Thường Minh mời hai vị thi tài, ai hơn sẽ ỏ lại hưỏng hương khói của dân làng Bạch Hạc. Đức Thổ Lệnh Đại Vương là anh, bước một bước qua sông và một bưốc nữa thì lui về chỗ cũ. Ngài bước in hằn vết chân lên một tảng đá, nơi đây khi hàng năm trong kỳ hội tháng ba có cuộc đua thuyền, thuyền bắt đầu khỏi hành.
Theo lời dân chúng, ỏ bên kia sông cũng có một vết chân như vậy, nhưng vì lâu năm bị đất phù sa che lấp đi. Tảng đá về phía sông Bạch Hạc, dân làng còn ghi được và cất giữ ỏ đình làng, vết chân dài 40cm thước, rộng 20cm.
Em đức Thổ Lệnh Đại Vương là đức Thạch Khanh Đại Vương được dân làng Thọ Sơn, huyện Hạc Trì tỉnh Phú Thọ thò phụng.
Do sự Hến hệ huynh đệ giữa hai vị Thần linh, dân hai làng Bạch Hạc và Thọ Sơn có tục giao hiếu với nhau trong những kỳ tế lễ hội của hai làng.
Hội Bạch Hạc với hai kỳ tháng giêng và tháng ba mỗi năm, nhiều cổ tục được nhắc lại, nhưng đặc biệt ỏ đây có cuộc thi thuyền trên sông Lô và tục cướp cầu. Còn những tục khác như chơi cò bỏi, tế lễ giông như những ngày hội xuân, hội Thu khác của miền Bắc.
Tục cướp cầu diễn ra trong thời kỳ hội mùng 3 tháng giêng. Đây là một thú vui đặc biệt của dân làng và hàng năm, trong ngày hội, dân trong các xã lân cận đã tới đây rất đông để xem và đôi khi cũng tham dự cuộc cướp cầu.
Mỗi năm dân làng cử một người may bộ cầu để tung cho dân làng cướp trong dịp hội. Ngưòi được cử may bộ cầu là một điều vinh dự trong dân xã, thường là hương chức trong làng. Bộ cầu gồm: Một quả cầu mẹ và tám quả cầu con. Mỗi quả cầu gồm một nắm bông bọc trong vải ngũ sắc có thêu chỉ mầu sặc sõ. Một sợi chỉ được đính vào quả cầu, một đầu chỉ buộc vào một cành tre. Mỗi quả cầu đều có dải buông thõng, dải hoặc khâu bằng lụa màu, hoặc kết bằng chỉ sặc sỡ.
Sáng ngày mùng 3 Tết, dân làng tới nhà vị Hương chức được chỉ định may cầu để rước bộ cầu ra đình. Đám rước long trọng có cụ Tiên chỉ trong làng cầm hương, các nam nữ thanh niên đi theo, có phưòng bát âm cử nhạc điểm theo tiếng chiêng, trống rất oai nghiêm. Chín mẹ con quả cầu bầy trên long đình do bốn thanh niên khiêng.
Rước tới đình, cả bộ cầu được kính cẩn đặt lên bàn thò thay cho bộ cầu năm trước. Kế đó là lễ tế cầu. Tế cầu xong là cuộc tung cầu để dân làng và cả dân thiên hạ cùng cướp cầu. cầu tung ba quả một, mỗi lần tung đều do một vị hương chức hoặc một vị bô lão đảm nhiệm.
Đầu tiên là ông Tiên Chỉ, thòi Pháp thuộc khi không có ông Tiên Chỉ, do ông niên trưỏng trong làng - tung quả cầu Mẹ và hai quả cầu Con. Vị này trước hết phải đọc một bài văn chúc, có nội dung ca tụng phong cảnh của làng, dân phong và nhất là sự linh thiêng của Đức Thành Hoàng đã che chỏ cho dân được thịnh vượng, làng xã được yên bình. Sau bài văn chúc ba cành tre được giơ cao theo nhịp trống thò. Khi tiếng trông dứt, dân làng hò reo vang dội, sau đó vị Tiên Chỉ lại đọc một bài văn chúc thứ hai cầu cho dân chúng trong xã gặp được mọi sự tốt lành. Tiếp theo, bài văn chúc thứ hai lại là một hồi trông và một lấn hò reo khác.
Sau đó, vị Tiên Chỉ hoặc niên trưởng tháo ba quả cầu buộc ở cành tre ra, buộc lại với nhau làm một rồi tung lên để dân chúng cướp cầu. Bộ ba quả cầu không kịp rớt xuống đất đã có người đõ, nhưng liền đó, người đõ được ba quả cầu lại bị người khác chen đẩy giằng mất. Họ xô lấn nhau, cười, nói gọi nhau, ngưòi này ngã, ngưòi kia reo, cho đến khi một người nắm chặt được bộ cầu thì dừng lại. Sáu quả cầu sau đó do hai vị chức sắc hoặc bô lão khác mỗi ngưòi tung ba quả, nhưng lần này, không còn hai bài văn chúc, chỉ có trống đánh nhịp và mọi người hò reo.
Mọi ngưòi lại xô đẩy chen lấn nhau như lần thứ nhất. Họ tin rằng cướp được quả cầu sẽ gặp may mắn nên đàn ông, đàn bà, thanh niên nam nữ đều dự cuộc. Cướp được cầu, dù một quả hay bộ ba quả, có thể đem về nhà làm kỷ niệm, hoặc để thò tại đình. Thông thưòng dân làng Bạch Hạc, cưốp được cầu, họ vẫn mang tới đình để thò cho tói năm sau. Tục cướp cầu, tuy chỉ là một cổ tục cử hành hàng năm theo nghi thức cổ truyền. Nhưng đây chính là một cổ tục để cao tinh Thần thượng võ, chứng tỏ người dân Việt Nam luôn luôn sẵn sàng bất khuất nó đã khiến dân tộc Việt Nam được tự chủ với bốn nghìn năm lịch sử. Cuộc thi thuyền hàng năm làng Bạch Hạc tổ chức vào ngày rã hội trong kỳ hội từ mùng 10 - 13, tổ chức trên dòng sông Lô để dân xã và khách trẩy hội từ thập phương tới có thể đứng hai bên bờ sông dự xem.
Làng có bốn giáp: Bộ Đầu, Tiểu Hạc, Đông Nam và Thần Chúc. Mỗi giáp có một chiếc trải dài bằng gỗ chò, dài 8,5m, rộng 0,6m, đóng bằng nguyên cả cây gỗ theo chiều dài. Chiếc trải có năm chục bơi chèo ỏ hai bên; đầu trải uốn thành rồng và đuôi trải cũng lượn khúc như đuôi rồng. Để dự cuộc bơi trải các giáp đểu chọn những nam thanh niên khoẻ mạnh, mỗi giáp 50 người cho chiếc trải, nhưng giáp nào cũng chọn một sô" ngưòi dự khuyết. Ngoài những tay bơi, mỗi giáp còn phải chọn ba ngưòi, ba ngưòi này thưòng là các bậc đàn anh trong giáp, một ngưòi đứng đầu thuyền cầm cò hiệu, một ngưòi đứng giữa gõ một chiếc trống khẩu để giữ nhịp cho những tay chèo và ỏ cuối thuyền, một người ngồi cầm lái. Mỗi bên mạn thuyền là hai mươi lăm tay chèo, đây là những nam thanh niên lực lưỡng đã được hàng giáp lựa chọn. Họ luyện tập cùng với ba vị đàn anh điều khiển chiếc trải. Trong lúc bơi, họ vừa chèo vừa hò reo. Người đứng đầu thuyền cầm cờ hiệu, đồng thời cầm trịch cho chiếc thuyền bơi. Người này trước hết phải luôn luôn đứng cho cân, tự giữ lấy thăng bằng, không nên vì mình mà thuyền thiên lệch, gây khó khăn cho các tay bơi. Đứng trên thuyền cho vững. Trong khi đó lại phải cầm trịch cho chiếc trải, dùng cờ hiệu phất cho chiêc trải hoặc đi thẳng, hoặc tiến trái, hoặc tiến phải, hoặc vòng theo một độ nào nhất định để quay đầu trỏ lại. Đây là một công việc, sự cẩn thận và khéo léo. Vì chỉ cần một chút sơ ý có thể ngả lao xuống nước trong khi chiếc trải vẫn bơi đi. Người cầm trông khẩu đứng giữa thuyền cũng phải giữ cơ thể cho cân, cho khỏi ngả như người cầm trịch và tiếng trống phải đều để khỏi lạc tay chèo những người đang bơi. Người cầm lái đứng ở cuối, cầm cả vặn mệnh của chiếc trải trong tay, trải đi nhanh hay chậm là do nhiệm vụ người cầm lái. Phải giữ lái cho trải đi thẳng, phui lựa tránh những chiếc trải khác mà vẫn vượt lên đầu. Lúc quay, khi lượn, phải lựa cho thuyền theo lái. Do đó, ngưòi cầm lái phải đứng cho vững, cho cân trên cuốĩ thuyền, nếu ngã xuông sông, chiếc trải không lái sẽ bơi lệch hướng trên mặt nước... Người cầm lái phải luôn luôn để ý tới ngưòi cầm trịch, theo hiệu của người cầm trịch' lái chiếc trải.
50 tay chèo, đã ngồi xuống chiếc trải, phải chú ý đến việc bơi, tai phải nghe tiếng trống, tay phải bơi cho đều, không nẻn để sai nhịp với bạn cùng bơi. Một tay chèo bơi sai nhịp, có thê gây rỗỉ loạn cho 3 - 4 tay chèo khác, có trưòng hợp cho cả một phía chiếc trải.
Do đó, phải có sự luyện tập hàng tháng trước, lúc xuống bơi trải, các tay chèo trong trang phục vận một chiếc khô", mỗi bên một mầu khô".
Lúc cuộc chơi bắt đầu, bốn chiếc trải xếp hàng đều nhau ò phía trước cửa đình làng. Trên chiếc trải, ngoài những tay chèo mình trần đóng khô, ba người đàn anh cầm trịch, đánh trống và giữ bánh lái, người nào cũng đóng khăn áo áo dài. Các chiếc trải khỏi hành ỏ trước cửa đình làng và bơi cho tới ngã ba sông nhánh chảy vào sông Lô. Theo lòi truyền tụng đây là dân làng diễn lại tích đức Thổ Lệnh Đại Vương, tiễn đức Tản Viên khi xưa, lúc đức Tản Viên tới thăm ngài ra về.
Chiếc trải về tới đình trước nhất sẽ được giải thưỏng và làm lễ đốt mừng bánh pháo. Dân làng Bạch Hạc giải thích cuộc bơi trải căn cứ trên một sự tích huyền bí: Đức Thổ Lệnh tiễn đưa đức Tản Viên, nhưng trên thực tế, người dân cần luôn luôn tập luyện cho quen sông nước. Gặp những năm dân làng làm ăn thịnh vượng, mùa màng được, nhân dịp hội tháng ba, dân làng tổ chức cờ người thay cho cò bỏi. Cò người cũng chơi như cò bỏi chỉ khác quân cờ thay vì những biển cò có khắc chữ, là những nam nữ thanh niên mặc quần áo có thêu chữ mang tên những quân cò. Chữ thêu ở trước ngực và ỏ sau lưng ngưòi đóng quân cò. Cũng có nơi, quân cò mặc quần áo như thưòng, nhưng có thêm chiếc biển khắc hoặc viết chữ theo bộ cò. Như vậy mỗi nước đi, nếu quân cò di chuyển phải mang theo chiếc biển của mình. Tại mỗi vị trí của bàn cò đều có một chiếc ghế để quân cờ ngồi.
Tại những xã lớn thịnh đạt, những nam nữ đóng quân cò còn mang theo khí giới và khi quân bên nọ ăn quân bên kia, quân cò ăn sẽ múa một thế võ như hạ quân cờ bị ăn. Những động tác này giổng như trong một màn hát bội. Ngoài những cổ tục trên, hội còn nhiều trò vui khác như tổ tôm điếm, đáo đĩa.