| TS. Châu Đình Linh, Trường đại học Ngân hàng TP.HCM. |
Theo ông, điều gì khiến lãi suất tiết kiệm có xu hướng tăng dần về cuối năm 2025?
Mặt bằng lãi suất huy động tăng do tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống đến cuối tháng 9/2025 đã đạt 15% so với đầu năm và ước đạt 16% tính đến hết tháng 11, tức đã chạm mục tiêu tăng trưởng tín dụng mà NHNN đặt ra cho cả năm. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng huy động vốn lại chậm hơn đáng kể, chỉ đạt khoảng 9,6-10,2% tính đến cuối tháng 11/2025.
Hệ quả của sự mất cân đối trên là Tỷ lệ cho vay trên vốn huy động (LDR), chỉ tính nguồn vốn thị trường 1, đã đạt mức tương đối cao. Mức LDR cao cho thấy, các ngân hàng đang sử dụng gần hết khả năng cho vay dựa trên nguồn vốn huy động nội địa, buộc họ phải tìm kiếm các nguồn vốn bổ sung hoặc tăng lãi suất để kéo tiền gửi về, nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay tăng mạnh vào dịp cuối năm.
Mức chênh lệch nêu trên cũng phản ánh sự thiếu hụt thanh khoản mang tính cấu trúc, không chỉ là yếu tố mùa vụ và cũng là nguyên nhân thúc đẩy làn sóng tăng lãi suất trong quý IV/2025. Áp lực huy động vốn cuối năm đã dẫn đến một làn sóng tăng lãi suất lan rộng. Khoảng 20 ngân hàng đã tăng lãi suất huy động từ đầu tháng 11/2025, với mức tăng phổ biến từ 0,1 đến 0,5 điểm phần trăm.
Việc các ngân hàng đẩy mạnh huy động để bổ sung thanh khoản làm dòng vốn dịch chuyển từ thị trường liên ngân hàng sang thị trường 1, khiến lãi suất liên ngân hàng tăng mạnh gần đây. Để giải tỏa cơn khát thanh khoản đột ngột này, NHNN đã bơm ròng khoảng 30.500 tỷ đồng qua OMO với lãi suất 4%.
Như vậy, áp lực lãi suất cho vay tăng theo chi phí huy động vốn, thưa ông?
Chi phí đầu vào tăng thì lãi suất cho vay sẽ tăng, nhưng nếu giữ được lãi suất tăng ở mức phù hợp thì lãi suất cho vay ngắn hạn cũng khó tăng. Và ngân hàng nào có Tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn (CASA) tốt, phát hành trái phiếu huy động nguồn vốn trung, dài hạn giá hợp lý, sẽ có điều kiện để giữ ổn định mặt bằng lãi suất cho vay...
Tuy nhiên, trong dài hạn, lãi suất cho vay trung, dài hạn khó có thể duy trì thấp. Chi phí vốn huy động tăng dần, trong khi lãi suất cho vay bị kìm hãm sẽ tạo áp lực đáng kể lên biên lãi ròng (NIM) của ngân hàng.
Năm 2025 được định hình bởi chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt của NHNN, ưu tiên mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, gắn với kiểm soát lạm phát và ổn định các cân đối lớn của nền kinh tế. Trong ba tháng đầu năm, NHNN kiên trì giữ nguyên các mức lãi suất điều hành ở mặt bằng thấp, đồng thời chỉ đạo các tổ chức tín dụng triển khai các biện pháp nhằm ổn định lãi suất tiền gửi, tiết giảm chi phí hoạt động và giảm lãi suất cho vay.
Nỗ lực này đã đạt được những kết quả đáng kể trong việc giảm chi phí vốn cho doanh nghiệp. Đến cuối tháng 10, lãi suất cho vay bình quân đối với các giao dịch mới đã giảm còn 6,88%/năm, lãi suất tiền gửi bình quân duy trì ở mức khoảng 4,22%/năm. Việc duy trì thành công lãi suất cho vay thấp là động lực chính thúc đẩy nhu cầu vốn và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đặt nền tảng cho tốc độ tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ hiếm thấy trong nhiều năm.
Trong bối cảnh tỷ giá còn áp lực và khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) giảm lãi suất trong tháng 12/2025, theo ông, chính sách tiền tệ trong nước có tiếp tục duy trì nới lỏng như hiện tại?
Áp lực tỷ giá vẫn hiện hữu trong quý IV/2025, nhưng sẽ được hỗ trợ tích cực từ chính sách tiền tệ quốc tế. Nếu Fed giảm lãi suất USD 0,25 điểm phần trăm vào tháng 12, thì đây sẽ là điều kiện tích cực cho chính sách tiền tệ trong nước khi lãi suất và tỷ giá có thể giảm bớt áp lực. Việc Fed giảm lãi suất cũng làm giảm sức hấp dẫn của việc nắm giữ ngoại tệ, tạo điều kiện cho dòng vốn quốc tế tìm đến các thị trường mới nổi có lợi suất hấp dẫn hơn như Việt Nam.
Quan trọng hơn, áp lực tỷ giá giảm bớt giúp giải phóng NHNN khỏi nhu cầu tăng lãi suất điều hành để ứng phó với biến động ngoại tệ. Điều này cho phép cơ quan quản lý tập trung hoàn toàn vào việc sử dụng các công cụ linh hoạt để giải quyết căng thẳng thanh khoản nội tại mà vẫn bảo toàn chính sách hỗ trợ tăng trưởng thông qua lãi suất cho vay thấp.