Khu vực doanh nghiệp chưa thực sự là động lực quyết định tăng trưởng năng suất lao động. |
Tăng trưởng kinh tế dựa nhiều hơn vào gia tăng năng suất lao động, là điểm nổi bật nhất của thay đổi cách thức hay chất lượng tăng trưởng trong giai đoạn 2016-2020, theo đánh giá của Chính phủ.
Đã đạt 110,5 triệu đồng/lao động
Nâng cao năng suất lao động, phấn đấu đạt mức trung bình của các nước ASEAN-6, bảo đảm hội nhập có kết quả là một trong những yêu cầu của Quốc hội, sau chất vấn và giám sát chuyên đề liên quan đến lĩnh vực kế hoạch và đầu tư.
Tại báo cáo mới gửi đến Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư (người thừa ủy quyền Thủ tướng ký báo cáo) cho biết, năng suất lao động của Việt Nam giai đoạn 2011-2019 tiếp tục cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm, là quốc gia có tốc độ tăng năng suất lao động cao trong ASEAN.
Năm 2019, năng suất lao động Việt Nam theo giá hiện hành đạt 110,5 triệu đồng/lao động (tương đương 4.792 USD/lao động), theo giá so sánh (2010) tăng 6,28%, giúp duy trì mức tăng năng suất lao động toàn xã hội bình quân giai đoạn 2016-2019 đạt 5,8%/năm, cao hơn so với mức tăng bình quân 4,3%/năm của giai đoạn 2011-2015, đạt mục tiêu đặt ra tại Nghị quyết số 27/NQ-CP ngày 21/ 02/ 2017 của Chính phủ (tăng trên 5,5%).
"Tăng trưởng kinh tế dựa nhiều hơn vào gia tăng năng suất lao động. Đây là điểm nổi bật nhất của thay đổi cách thức hay chất lượng tăng trưởng trong giai đoạn 2016-2020", Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh.
Cụ thể hơn, báo cáo nêu, năng suất lao động giai đoạn 2016-2020 ước tính tăng 26,2%; trong đó, năng suất lao động nội ngành tăng 16,6%; năng suất do chuyển dịch cơ cấu ngành tăng 9,4%; và do chuyển dịch lao động tăng 0,2% .
Theo giá so sánh, bình quân năm trong giai đoạn 2016-2019, năng suất lao động toàn nền kinh tế tăng 6,01%, cao hơn tốc độ tăng 4,27% của giai đoạn 2011-2015.
Tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam trong giai đoạn 2011-2019 cao hơn các nước ASEAN-6. Tính theo sức mua tương đương (PPP 2011), năng suất lao động của Việt Nam giai đoạn 2011-2019 tăng bình quân 4,87%/năm, cao hơn mức tăng bình quân của Singapore (1,37%/năm); Malaysia (2,04%/năm); Thái Lan (3,17%/năm); Indonesia (3,59%/năm); Philippines (4,33%/năm); Brunei (giảm 0,32%/năm). Nhờ đó, Việt Nam đã thu hẹp được khoảng cách tương đối với các nước ASEAN có trình độ phát triển cao hơn.
Tuy nhiên, theo PPP 2011, năng suất lao động của Việt Nam năm 2019 chỉ bằng 7,6% mức năng suất của Singapre; 19,5% của Malyasia; 37,9% của Thái Lan; 45,6% của Indonesia; 56,9% của Philippines và 68,9% của Brunei. Điều này cho thấy nền kinh tế Việt Nam sẽ phải đối mặt với thách thức rất lớn trong thời gian tới để có thể bắt kịp mức năng suất lao động của các nước ASEAN-6.
5 nguyên nhân khiến năng suất lao động còn thấp
Nhìn nhận nguyên nhân chủ yếu năng suất lao động của Việt Nam trong giai đoạn 2011-2019 vẫn còn thấp và có khoảng cách khá xa so với các nước ASEAN-6, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho rằng, quy mô nền kinh tế Việt Nam nhỏ, quá trình chuyển dịch kinh tế còn chậm.
Với xuất phát điểm thấp, quy mô kinh tế nhỏ, việc thu hẹp khoảng cách tương đối về thu nhập bình quân và năng suất lao động của Việt Nam với các nước trong thời gian qua là một thành tựu đáng ghi nhận nhưng chưa đủ để thu hẹp khoảng cách tuyệt đối về mức năng suất lao động so với các nước trong khu vực.
Ngoài ra, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, nhưng còn chậm; máy móc, thiết bị và quy trình công nghệ còn lạc hậu; chất lượng nguồn nhân lực hạn chế. Chuyển dịch cơ cấu lao động tuy diễn ra khá nhanh nhưng lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản hiện nay còn lớn, đa số lao động trong khu vực này là lao động giản đơn, công việc có tính thời vụ, không ổn định nên giá trị gia tăng tạo ra thấp, dẫn đến năng suất lao động thấp.
Nguyên nhân thứ hai là máy móc, thiết bị và quy trình công nghệ còn lạc hậu. Phần lớn doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp dân doanh có trình độ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo thấp, nhiều doanh nghiệp đang sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu, tụt hậu 2-3 thế hệ so với mức trung bình của thế giới.
Theo Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế thế giới, Việt Nam đứng thứ 67 trong 141 nền kinh tế năm 2019, trong khi các chỉ số thành phần về năng lực đổi mới sáng tạo chỉ xếp thứ 76. Điều này cho thấy, Việt Nam cần tiếp tục kiến tạo môi trường thuận lợi cùng với các thể chế, chính sách mới cho khu vực doanh nghiệp để thúc đẩy quá trình nâng cao công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Thứ ba, tỷ lệ đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng còn ở mức thấp , cho thấy trình độ phát triển khoa học công nghệ, ý thức tổ chức và quản lý trong sản xuất kinh doanh của lao động Việt Nam còn chưa đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất hiện đại.
Thứ tư, chất lượng nguồn nhân lực hạn chế. Điều này thể hiện rõ ở tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp, cơ cấu đào tạo thiếu hợp lý, thiếu hụt lao động có tay nghề cao, khoảng cách giữa giáo dục nghề nghiệp và nhu cầu của thị trường lao động còn lớn. Tỷ lệ lao động 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo đang làm việc trong nền kinh tế tăng dần qua các năm nhưng đến năm 2019 chỉ đạt 22,8%. Đây chính là rào cản lớn cho việc cải thiện NSLĐ.
Nguyên nhân thứ năm được nêu tại báo cáo là khu vực doanh nghiệp chưa thực sự là động lực quyết định tăng trưởng năng suất lao động. Doanh nghiệp Việt Nam chưa tham gia sâu trong chuỗi cung ứng toàn cầu, các doanh nghiệp nội địa hầu như chưa kết nối được vào chuỗi giá trị toàn cầu của các công ty, tập đoàn xuyên quốc gia lớn nên chưa tận dụng được tính lan toả của tri thức, công nghệ và NSLĐ từ các công ty, tập đoàn xuyên quốc gia vào doanh nghiệp trong nước.
Ngoài ra, quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước còn chưa được như mong muốn, việc phân bổ nguồn lực của các doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhận định.