| Nhu cầu vốn trung, dài hạn cho các dự án, công trình trọng điểm quốc gia là rất lớn. Ảnh: Đức Thanh |
Áp lực huy động vốn đang lớn dần
Theo bà Hà Thu Giang, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (Ngân hàng Nhà nước), đến ngày 27/11/2025, dư nợ tín dụng đạt trên 18,2 triệu tỷ đồng, tăng 16,56% so với cuối năm 2024 và tăng gần gấp đôi so với đầu giai đoạn trước. Tuy nhiên, tín dụng tăng mạnh đồng nghĩa với việc ngành ngân hàng chịu áp lực lớn trong huy động vốn đầu vào.
“Nhu cầu vốn trung, dài hạn cho các dự án, công trình trọng điểm quốc gia là rất lớn, tạo áp lực cho các tổ chức tín dụng trong việc cung ứng vốn để thực hiện dự án, cũng như rủi ro kỳ hạn do nguồn vốn chính để cho vay chủ yếu là tiền gửi có kỳ hạn ngắn, chiếm 80% tổng tiền gửi của các tổ chức tín dụng”, bà Giang nói.
Về phía doanh nghiệp, bà Nguyễn Thị Hài Hòa, Phó tổng giám đốc, kiêm Trưởng ban Tài chính (Tập đoàn Sun Group) cũng thừa nhận rất khó khăn trong tìm kiếm các nguồn vốn vay trung, dài hạn từ ngân hàng. Lấy ví dụ dự án Bà Nà Hills, hay Fansipan kéo dài tới 12-16 năm, bà Hòa cho hay, thực tế các tổ chức tín dụng cho vay dài hạn nhất chỉ 7 năm, trên 7 năm được xếp vào nhóm rủi ro. Hiện nay, khi tín dụng tăng nhanh, mạnh, khả năng huy động vốn của ngân hàng không theo kịp, việc tiếp cận vốn dài hạn của doanh nghiệp càng khó khăn.
Theo các chuyên gia, nhu cầu vốn cho giai đoạn tới là rất lớn, vì vậy, bên cạnh việc có giải pháp tăng huy động, thì việc phân bổ nguồn lực sao cho hiệu quả, bền vững là vấn đề quan trọng nhất.
- TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế
“Giai đoạn tới, Việt Nam cần tăng trưởng nhanh, bền vững và bao trùm trên cả 3 trụ cột kinh tế - xã hội - môi trường. Đồng thời, mô hình tăng trưởng phải chuyển dịch nhiều từ dựa nhiều vào vốn, lao động sang dựa nhiều hơn vào khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, cải cách thể chế và năng suất. Song song với đó là cần cải thiện cả 3 khâu: huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực”, TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế khuyến nghị.
Ngoài ra, các chuyên gia cũng cho rằng, tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam tính đến cuối năm ngoái đã ở mức rất cao (134%), nếu thời gian tới, tín dụng tiếp tục tăng mạnh, con số này càng ở mức cảnh báo. Vì vậy, để phục vụ tăng trưởng trong thời gian tới, cần phải phát triển mạnh hơn thị trường vốn để giảm áp lực cho hệ thống ngân hàng, cũng là để giảm rủi ro cho nền kinh tế.
Mở rộng kênh trái phiếu doanh nghiệp để giảm sức ép cho ngân hàng
Ông Nguyễn Bá Hùng, Kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam cho rằng, tỷ trọng trái phiếu doanh nghiệp trên tổng dư nợ trái phiếu toàn thị trường của Việt Nam còn thấp so với các nền kinh tế như Singapore, Thái Lan hay Malaysia. Đáng chú ý, nhà đầu tư nước ngoài sở hữu trái phiếu chính phủ tại Việt Nam gần như bằng 0, trong khi tỷ lệ này ở nhiều nước có thể lên đến 20%.
Một điểm hạn chế nữa của thị trường trái phiếu doanh nghiệp nước ta là vấn đề kỳ hạn. Hơn một nửa trái phiếu doanh nghiệp phát hành trên thị trường có kỳ hạn 1-3 năm, lượng trái phiếu doanh nghiệp có kỳ hạn trên 10 năm rất thấp, cho thấy thị trường trái phiếu Việt Nam chủ yếu chỉ đang cung cấp vốn ngắn đến trung hạn.
“Thị trường vốn phát triển còn hạn chế là nguyên nhân khiến nền kinh tế vẫn phụ thuộc quá lớn vào hệ thống ngân hàng. Chỉ khi thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển tốt, nền kinh tế hoàn toàn có thể quy đổi dư nợ tín dụng ngân hàng sang dư nợ trái phiếu. Về lâu dài, trái phiếu cần được phát triển mạnh vì đây là kênh huy động vốn dài hạn ổn định nhất mà doanh nghiệp có thể thực hiện”, ông Hùng khuyến nghị.
Bà Nguyễn Thị Hài Hòa thừa nhận, vấn đề kỳ hạn và thanh khoản chính là khó khăn của các doanh nghiệp hiện nay khi phát hành trái phiếu. “Cần có cơ chế đảm bảo thanh khoản cho nhà đầu tư muốn thoái vốn sớm. Ví dụ, khi trái phiếu có kỳ hạn 10 năm, nhưng sau 5 năm, nhà đầu tư muốn bán thì phải làm thế nào?”, bà Hòa đặt câu hỏi.
Bà Hòa kiến nghị có giải pháp tăng tính thanh khoản cho trái phiếu phát hành dài hạn, nhất là trong bối cảnh phát hành trái phiếu quốc tế còn khó khăn và không hề rẻ. Nếu có cơ chế phù hợp, thị trường trái phiếu doanh nghiệp sẽ là kênh huy động vốn hiệu quả cho doanh nghiệp.
Dù vậy, theo bà Phạm Thị Thanh Tâm, Phó vụ trưởng Vụ Các định chế tài chính (Bộ Tài chính), kênh phát hành trái phiếu doanh nghiệp đang rất khó khăn, do thiếu vắng nhà đầu tư tổ chức. “Đặc điểm lớn nhất trên thị trường vốn và thị trường trái phiếu Việt Nam có ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn là cơ sở nhà đầu tư rất mỏng, thiếu vắng nhà đầu tư có tổ chức, có tiềm lực tài chính mạnh, có nguồn vốn dài hạn để tham gia đầu tư”, bà Tâm chia sẻ.
Để thị trường vốn Việt Nam nói chung và kênh trái phiếu doanh nghiệp phát triển mạnh, các chuyên gia kiến nghị, cần có cơ chế khuyến khích các nhà đầu tư tổ chức tham gia nhiều hơn vào trái phiếu doanh nghiệp.