Đầu tư Phát triển bền vững
Đầu tư cho trẻ em, kiến tạo tương lai xanh và công bằng
D.Ngân - 11/12/2025 21:19
Trẻ em, đặc biệt là các nhóm yếu thế, cần được ưu tiên trong đầu tư công, giáo dục, y tế và bảo trợ xã hội, đồng thời tích hợp yếu tố biến đổi khí hậu để đảm bảo phát triển bền vững và công bằng.

Tại Hội thảo “Xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2026-2030 thích ứng với biến đổi khí hậu và hướng tới nhóm yếu thế” do Học viện Chính sách và Phát triển phối hợp cùng Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) tổ chức, TS.Nguyễn Thế Hùng, Phó giám đốc Học viện đã trình bày các đề xuất giải pháp ưu tiên đầu tư cho trẻ em trong kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội giai đoạn 2026-2030, đồng thời gắn với mục tiêu ứng phó biến đổi khí hậu.

Theo TS.Hùng, trong bối cảnh một số chỉ tiêu liên quan đến trẻ em hiện vẫn chưa đạt, nên việc tăng cường đầu tư cho trẻ em trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Biến đổi khí hậu và các hiện tượng thời tiết cực đoan đã tác động trực tiếp và gián tiếp đến trẻ em, đòi hỏi cần có những giải pháp phù hợp.

TS.Nguyễn Thế Hùng, Phó giám đốc Học viện Chính sách và Phát triển đã trình bày các đề xuất giải pháp ưu tiên đầu tư cho trẻ em trong kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội giai đoạn 2026-2030, đồng thời gắn với mục tiêu ứng phó biến đổi khí hậu.

Báo cáo của UNICEF cũng cho thấy tồn tại tình trạng bất bình đẳng trong việc cung cấp dịch vụ cho trẻ em giữa các nhóm dân tộc thiểu số, giữa các vùng miền, giữa trẻ em trai và gái, cũng như trẻ em khuyết tật.

Về thực trạng đầu tư, chi tiêu công cho giáo dục của Việt Nam tương đối cao trong khu vực (khoảng 4,1% GDP năm 2019), tương đương mức trung bình OECD, trong khi chi ngân sách cho bảo trợ xã hội, bao gồm y tế, đạt 7,55% GDP (năm 2018), thuộc nhóm 5 quốc gia cao nhất khu vực Châu Á-Thái Bình Dương.

Tuy nhiên, hiện chưa có hệ thống phân loại, thống kê, báo cáo riêng về chi ngân sách cho trẻ em, dẫn đến khó khăn trong việc đánh giá hiệu quả và điều phối nguồn lực.

Bên cạnh đó, việc phân bổ ngân sách cho trẻ em hiện thông qua nhiều phương thức khác nhau, bao gồm chi đầu tư, chi thường xuyên, ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, cũng như các chương trình mục tiêu quốc gia.

Về chính sách hỗ trợ huy động nguồn lực trong nước, các cơ chế ưu đãi về vay vốn, thuế, tiếp cận đất đai để thu hút khu vực tư nhân tham gia đầu tư cho trẻ em còn hạn chế. Các dự án sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi cũng chưa có bộ tiêu chí ưu tiên lồng ghép yếu tố trẻ em.

Một vấn đề nổi bật khác là việc đảm bảo chi tiêu kịp thời và tránh thất thoát. Hiện chưa có hướng dẫn cụ thể về giải pháp và nguồn lực để lồng ghép quyền lợi trẻ em vào kế hoạch và phân bổ ngân sách ứng phó với biến đổi khí hậu.

Thiếu hệ thống chỉ số định lượng để đánh giá lợi ích đầu tư công cho trẻ em, đặc biệt là các dự án thích ứng và giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu, khiến việc lựa chọn, thẩm định và phê duyệt các dự án ưu tiên trẻ em còn hạn chế. Ngoài ra, các khoản chi trực tiếp cho trẻ em vẫn còn ít và dàn trải, do nhiều quy định đã lâu không được cập nhật.

Các đại biểu dự Hội thảo chụp ảnh lưu niệm.

Về phân bổ nguồn lực dựa trên kết quả thực tế, các kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội quốc gia còn mang tính tổng quát, thiếu các chỉ tiêu cụ thể cho trẻ em. Kế hoạch ngành chưa toàn diện, chưa tính đến tác động của biến đổi khí hậu và chưa ưu tiên các dự án đầu tư công giảm thiểu rủi ro thiên tai cho trẻ em.

Ở cấp địa phương, thiếu sự thống nhất trong xây dựng chỉ tiêu và cơ chế phân bổ nguồn lực, đồng thời chưa có hướng dẫn phân bổ vốn đầu tư và chi thường xuyên phù hợp.

Thêm vào đó, việc phân bổ nhằm thu hẹp bất bình đẳng vẫn còn hạn chế, khi Việt Nam chưa có chương trình trợ cấp trẻ em phổ quát và ngân sách địa phương còn hạn chế, dẫn đến chênh lệch chi tiêu giữa các vùng, đặc biệt là vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

Các chương trình mục tiêu quốc gia còn chồng chéo, chưa giải quyết triệt để các vấn đề của trẻ em, và việc tham gia của cộng đồng, đặc biệt là trẻ em và thanh thiếu niên, trong quá trình phân bổ ngân sách còn hạn chế.

Để khắc phục những tồn tại trên, TS.Hùng đề xuất cần thiết lập các thể chế, chính sách nhằm đảm bảo công bằng trong tiếp cận cơ hội phát triển cho nhóm yếu thế, đồng thời tăng cường kết nối giữa chính sách kinh tế và xã hội.

Mục tiêu hướng tới hoàn thành các SDG 2030, bao gồm giải quyết suy dinh dưỡng trẻ em dân tộc thiểu số (SDG2), tập trung dịch vụ y tế cơ bản cho nhóm dễ bị tổn thương (SDG3) và đảm bảo nền giáo dục chất lượng, công bằng, toàn diện (SDG4). Hai chương trình mục tiêu quốc gia cũng sẽ được triển khai đồng bộ.

Theo Nghị quyết 71 và 72 của Bộ Chính trị, các đột phá chính sách cần thực hiện bao gồm phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 3-5 tuổi, hoàn thành giáo dục bắt buộc hết THCS, đảm bảo 85% học sinh hoàn thành THPT, 100% giáo viên đạt chuẩn và phòng học kiên cố; tăng cường y tế dự phòng, y tế cơ sở, đạt bao phủ bảo hiểm y tế toàn dân, đầu tư cơ sở vật chất và nhân lực cho trạm y tế xã, hướng tới tuổi thọ trung bình khoảng 75,5 tuổi vào năm 2030.

Một trong những kiến nghị quan trọng là Bộ Chính trị ban hành Chiến lược Quốc gia về trẻ em đến năm 2045, nhằm lồng ghép các nội dung liên quan đến trẻ em vào chiến lược, quy hoạch ngành và địa phương, xây dựng chỉ tiêu cụ thể, bố trí và phân bổ nguồn lực hiệu quả, đồng thời theo dõi, đánh giá việc thực hiện các chỉ tiêu này.

Cụ thể, ngân sách cho giáo dục, y tế, bảo hiểm y tế và an sinh xã hội dành cho trẻ em được đề xuất bổ sung khoảng 110.000 tỷ đồng mỗi năm, tương đương 0,9% GDP năm 2025. Bộ Giáo dục và Bộ Y tế sẽ hướng dẫn các địa phương xây dựng dự toán chi ngân sách, lập kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội cấp tỉnh/xã thống nhất theo hệ thống chỉ tiêu bắt buộc.

Tiêu chí lựa chọn các dự án thành phần của Chương trình mục tiêu quốc gia ưu tiên các xã miền núi, biên giới, hải đảo, các nhóm trẻ em yếu thế và liên tục đầu tư cho trẻ em xuyên suốt vòng đời.

Trong lĩnh vực y tế, các chỉ tiêu ưu tiên bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, khắc phục suy dinh dưỡng trẻ em dân tộc thiểu số, tăng cường dịch vụ y tế cơ bản, đảm bảo bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ và trẻ em gái.

Ở lĩnh vực giáo dục, các địa phương sẽ lập kế hoạch xây dựng trường học, phòng học mới, nâng cao chất lượng giáo dục. Đối với nước sạch và vệ sinh môi trường, thực hiện khung chiến lược phát triển khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu.

Phó giám đốc Học viện Chính sách và Phát triển cũng nhấn mạnh, cần chuyển đổi từ mô hình ứng phó thảm họa truyền thống sang khuôn khổ phát triển kiên cường có khả năng chống chịu trước cú sốc khí hậu. Trong đó, bảo trợ xã hội và bảo vệ trẻ em phải lồng ghép rủi ro biến đổi khí hậu, đảm bảo trẻ em khuyết tật, trẻ dân tộc thiểu số và trẻ nghèo được hỗ trợ kịp thời.

Giáo dục cần xây dựng trường học an toàn, thông minh với khí hậu, tăng cường năng lực quản lý rủi ro thiên tai và tích hợp nội dung giáo dục môi trường, biến đổi khí hậu và kỹ năng xanh vào chương trình học chính khóa.

Bên cạnh đó, việc huy động đóng góp nguồn lực và kỹ thuật từ các tổ chức quốc tế, đặc biệt là UNICEF, là rất quan trọng. Hỗ trợ kỹ thuật giúp xây dựng bộ tiêu chí phân loại chi tiêu công cho trẻ em, lựa chọn, thẩm định và phê duyệt các dự án đầu tư công có tính đến yếu tố trẻ em, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu.

Đồng thời, cần tăng cường thu hút vốn ODA và vốn vay ưu đãi cho các dự án liên quan đến trẻ em, đặc biệt trong 2 Chương trình Mục tiêu Quốc gia mới giai đoạn 2026-2035.

"Như vậy, việc ưu tiên đầu tư cho trẻ em trong Kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội 2026-2030 không chỉ đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững mà còn là giải pháp then chốt để đảm bảo công bằng, nâng cao chất lượng sống và tăng cường khả năng chống chịu của trẻ em trước những thách thức của biến đổi khí hậu", TS.Hùng nêu.

Cũng nói về chủ đề này, PGS-TS.Trần Trọng Nguyên, Giám đốc Học viện Chính sách và Phát triển đặc biệt lưu ý rằng, các nhóm yếu thế luôn chịu ảnh hưởng sớm và nặng nề nhất, do đó việc tích hợp yếu tố thích ứng vào quá trình hoạch định chính sách là yêu cầu cấp thiết để đảm bảo phát triển bao trùm và bền vững.

“Thích ứng với biến đổi khí hậu không chỉ là nhiệm vụ của các nhà quản lý hay các tổ chức quốc tế, mà còn là trách nhiệm của các cơ sở nghiên cứu và đào tạo, nhằm cung cấp tri thức, bằng chứng và khuyến nghị chính sách kịp thời cho quá trình ra quyết định”, PGS-TS.Trần Trọng Nguyên nhấn mạnh.

Theo Giám đốc Học viện Chính sách và Phát triển, yêu cầu hiện nay là phải lồng ghép yếu tố thích ứng với biến đổi khí hậu vào quá trình hoạch định chính sách và kế hoạch phát triển, đồng thời tìm kiếm các giải pháp tài chính sáng tạo và phù hợp để nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế.

Ông cũng khẳng định vai trò quan trọng của sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước, giới chuyên gia, giới học thuật và các tổ chức quốc tế, trong đó có UNICEF, đơn vị đồng hành cùng Học viện trong sự kiện lần này.

Tin liên quan
Tin khác