Hình thành chuỗi cung ứng sản phẩm Việt Nam
Câu chuyện Vingroup là giữa tập đoàn kinh tế trong nước với doanh nghiệp nhỏ và vừa để hình thành chuỗi cung ứng nông sản.
Vingroup là tập đoàn kinh tế hàng đầu của Việt Nam, kinh doanh đa ngành, vài năm gần đây phát triển mạng lưới hàng trăm siêu thị trên cả nước và đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao tại nhiều địa phương. Vingroup đã xây dựng mô hình liên kết với các nhà sản xuất và thương mại với nhiều chính sách ưu đãi khá hấp dẫn, dựa trên phương châm “liên kết giữa các doanh nghiệp Việt Nam trong từng ngành hàng để tạo ra sức mạnh nhằm cạnh tranh với doanh nghiệp FDI trên thị trường trong nước”. Vingroup hạ mức chiết khấu về 0 - 5% cho một số sản phẩm nông nghiệp khi đưa vào bán tại các siêu thị của tập đoàn này, trong khi không ít nhà bán lẻ như Big C sau khi thuộc sở hữu của người Thái đã tăng chiết khấu lên 25%, nhiều doanh nghiệp Việt Nam không thể chấp nhận.
Năng lực của nhiều tập đoàn kinh tế tại Việt Nam đủ sức hình thành chuỗi cung ứng toàn cầu |
Vingroup đã ký hợp đồng với 250 nhà cung cấp và hàng trăm hợp tác xã nông nghiệp (kiểu mới) để hợp tác áp dụng công nghệ mới, công nghệ sạch, hướng dẫn nông dân canh tác, thu hoạch và tạo ra chuỗi cung ứng với chi phí thấp, thời gian rút ngắn từ nơi sản xuất đến siêu thị. Do vậy, người sản xuất, doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng, người tiêu dùng và Vingroup đều được hưởng lợi.
Câu chuyện Vingroup hình thành hệ thống phân phối, liên kết với nhà sản xuất, nhà phân phối là mô hình để doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh trong từng ngành hàng trên tinh thần hợp tác, liên kết, tự chủ phát triển mạng lưới, hình thành chuỗi cung ứng của Việt Nam nhằm khai thác và tận dụng cơ hội mới của thị trường trong nước và thị trường thế giới.
Hình thành chuỗi cung ứng toàn cầu của Việt Nam
Vinamilk, TH true MILK, Viettel đang thực hiện có hiệu quả chuỗi cung ứng toàn cầu ở nhiều nước.
Sau 40 năm kể từ ngày thành lập, Vinamilk là tập đoàn dinh dưỡng hàng đầu Việt Nam, có 18 năm kinh nghiệm xuất khẩu ra thị trường thế giới, hiện đã có mặt tại hơn 40 quốc gia như Mỹ, châu Âu, châu Phi, New Zealand, Myanmar và Thái Lan.
Vinamilk có 10 nông trại chăn nuôi bò và 13 nhà máy trên cả nước; nhà máy sữa tại tỉnh Bình Dương là một trong 2 siêu nhà máy của Vinamilk, có năng lực sản xuất 800 triệu lít sữa/năm và 3 nhà máy ở nước ngoài. Trong giai đoạn 2011 - 2015, năng suất lao động tăng bình quân 10,19%/năm và giá trị gia tăng 14,5%/năm, đạt 1,9 tỷ đồng (89.000 USD)/người/năm. Vinamilk dự kiến năm 2017 đạt doanh thu 3 tỷ USD. Với thương hiệu quốc tế, khi tiến hành cổ phần hóa, Vinamilk sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư tiềm năng.
Tại Việt Nam, nếu như Vinamilk là kẻ thống trị thị trường sữa, thì kẻ đến sau là TH true MILK phải tìm hướng đi mới để hấp dẫn người tiêu dùng, đó là “sữa sạch”. Với một chương trình quảng bá truyền thông nhấn mạnh đến yếu tố “sữa sạch”, TH true MILK đã phần nào tạo được khác biệt với những nhãn hàng sữa khác trên thị trường.
Bà chủ tập đoàn này đã biến ý tưởng trở thành nhà sản xuất và cung ứng sữa sạch hàng đầu Việt Nam, biết chọn địa điểm thực hiện dự án ở Nghĩa Đàn (Nghệ An), chọn nhà tư vấn là một công ty chuyên về sữa của Israel - nước đứng đầu thế giới về công nghệ nuôi bò và sản xuất sữa, giao cho công ty này mua bò tại New Zealand và Australia, nuôi bò, trồng cỏ, chế biến sữa; chỉ sau dăm năm đã trở thành tập đoàn sữa tư nhân lớn nhất Việt Nam. TH true MILK đang đầu tư tại Liên bang Nga, với diện tích trồng cỏ và nuôi bò hàng trăm ngàn héc-ta.
So với Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông (VNPT) thì Viettel là “lính mới” trên thị trường viễn thông, nhưng nhờ chiến lược phát triển đúng đắn, Viettel đã vượt qua VNPT cả về doanh số, lợi nhuận, nộp ngân sách nhà nước. Viettel hiện đã đầu tư tại 10 nước. Theo thống kê của GSMA Intelligence, đến giữa tháng 9/2016, Viettel nằm trong số 30 tập đoàn viễn thông có số lượng khách hàng nhiều nhất thế giới, đạt 26 triệu khách hàng ngoài Việt Nam (so với 10 triệu khách hàng vào năm 2013).
Từ những điển hình nêu trên, có thể thấy, năng lực của nhiều tập đoàn kinh tế Việt Nam đủ sức hình thành chuỗi cung ứng toàn cầu, với nhiều loại sản phẩm Việt Nam có lợi thế trong hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Vấn đề đặt ra cần được quan tâm xử lý là kết nối theo chuỗi cung ứng của các tập đoàn này với doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trên thị trường thế giới, như các công ty đa quốc gia của các nước khi đầu tư tại nước ta đã kéo theo nhiều nhà cung cấp và nhà phân phối của nước họ vào nước ta. Để thực hiện được mục tiêu đó, các tập đoàn cần làm đầu tàu trong quá trình hợp tác trong từng chuỗi cung ứng, doanh nghiệp nhỏ và vừa chủ động và trên tinh thần hợp tác tin cậy, cùng có lợi tham gia vào một số khâu của chuỗi cung ứng toàn cầu. Đó là định hướng quan trọng gắn với xuất khẩu lao động để mang lại giá trị gia tăng cao, thay thế dần phương thức xuất khẩu lao động hiện hành có nhiều nhược điểm cần khắc phục.
Hiệp hội ngành hàng với việc hình thành chuỗi cung ứng
Hiệp hội Dệt may cho rằng, động lực để liên kết chuỗi cung ứng ngành dệt may hiện nay gồm hoa hồng, giảm giá và thu mua lại, môi trường bình đẳng theo định hướng thay đổi phương thức thức chủ yếu là gia công sang tham gia chuỗi cung ứng từ khâu thiết kế mẫu mã, sản xuất với tỷ trọng ngày càng tăng nguyên liệu, phụ liệu, sản xuất hàng may mặc, dịch vụ hậu cần và bán hàng để thu được giá trị gia tăng nhiều hơn.
Để đáp ứng yêu cầu của các hiệp định thương mại tự do mới, Hiệp hội Dệt may chủ động tổ chức quá trình phân công và hợp tác theo chuỗi cung ứng giữa các doanh nghiệp từ thiết kế sản phẩm, dệt, nhuộm, đến may mặc nhằm đảm bảo quy tắc xuất xứ, cùng năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam.
Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần chú trọng xây dựng, quảng bá và nâng cao hình ảnh thương hiệu để phục vụ tiêu dùng trong nước và tiến tới xuất khẩu ra thị trường ngoài, như cách mà Công ty An Phước đã mua thương hiệu Pierre Cardin, đồng thời xây dựng thương hiệu An Phước để phục vụ người tiêu dùng Việt Nam với mức giá bằng một nửa so với sản phẩm mang thương hiệu Pierre Cardin.
Hoạt động của hiệp hội ngành hàng hướng vào việc hình thành chuỗi cung ứng để khắc phục nhược điểm của từng loại sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ tiêu thụ trên thị trường trong nước và xuất khẩu ra thị trường nước ngoài, đồng thời, khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng và quảng bá thương hiệu, phấn đấu để nước ta có nhiều thương hiệu mạnh. Đó chính là kinh nghiệm được rút ra từ ngành dệt may Việt Nam.
Nhà nước với việc hình thành chuỗi cung ứng
Trong những năm gần đây, Chính phủ đã có nhiều chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ trợ để doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, liên kết theo chuỗi trong từng ngành hàng, thành lập một số quỹ hỗ trợ doanh nghiệp về khoa học và công nghệ, về bảo lãnh tín dụng, về phát triển kinh doanh, giảm thuế cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, tổ chức các trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, các vườn ươm công nghệ.
Đó là một nguyên nhân quan trọng đối với sự phát triển nhanh chóng số lượng doanh nghiệp và đóng góp của doanh nghiệp tư nhân vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian vừa qua.
Hiện nay, vấn đề cơ bản không phải là ban hành thêm chính sách mới, mà là hoàn thiện chính sách đã ban hành để bảo đảm tính hệ thống và khả thi; đồng thời thực thi chính sách có hiệu quả hơn để doanh nghiệp nhỏ và vừa được thụ hưởng nhiều hơn.
Viện nghiên cứu Mitsubishi hợp tác với Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đã tiến hành nghiên cứu Đề tài “Enchancement of Vietnamese Supporting Industries”, kiến nghị về việc ứng dụng mô hình rất thành công của Nhật Bản để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trong quá trình phát triển nhằm tham gia ngày càng hiệu quả hơn trong chuỗi cung ứng sản phẩm.
Hiện nay, mỗi tỉnh, thành phố có 2 trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp, gồm Trung tâm Khuyến công thuộc Sở Công thương và Trung tâm Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư. Theo khảo sát của đề tài này, các trung tâm đó hoạt động kém hiệu quả do 2 nguyên nhân: không có đủ nguồn lực về tài chính, máy móc, thiết bị, chuyên gia tư vấn; doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa tiếp cận hoạt động của các trung tâm đó.
Đề tài đã kiến nghị sáp nhập các trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp tại tỉnh, thành phố để thành lập Trung tâm Công nghệ công cộng của địa phương (Local Public Technology Center - LPTC), với các chức năng là thực hiện nghiên cứu và phát triển (R&D) để phục vụ công nghiệp hóa của từng địa phương; hỗ trợ về công nghệ và tài chính cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; hỗ trợ các hoạt động sản xuất nông nghiệp, thủy sản, lâm nghiệp, khai khoáng.
LPTC được đầu tư đầy đủ chuyên gia giỏi về công nghệ, tài chính, quản trị doanh nghiệp, trang bị công nghệ và thiết bị hiện đại, được ngân sách địa phương đài thọ, có thể huy động vốn từ các nguồn tài trợ trong và ngoài nước, có cơ chế tự chủ tài chính.
Nhật Bản hiện có 600 LPTC, mỗi trung tâm có khoảng 100 chuyên gia, cán bộ, nhân viên, trong đó có 3 trung tâm lớn với trên 300 người/trung tâm.
Có thể coi đây là mô hình rất đáng được nghiên cứu để ứng dụng vào nước ta. Tuy vậy, chúng tôi cho rằng, trong điều kiện thực tế Việt Nam hiện nay, nên tổ chức LPTC ở 2 thành phố lớn là Hà Nội và TP.HCM, vì ở đó tập trung hơn 60% doanh nghiệp tư nhân cả nước, có tiềm lực mạnh về tài chính, chuyên gia công nghệ, kinh tế, pháp lý. Sau một vài năm, nếu mô hình này thành công thì sẽ nhân rộng ra các địa phương khác.
Kết luận
Với hơn nửa triệu doanh nghiệp tư nhân, trong đó 97% là doanh nghiệp nhỏ và vừa, đang hướng tới mục tiêu 1 triệu doanh nghiệp tư nhân vào năm 2020, với định hướng, chính sách đang có hiệu lực và với các mô hình chuỗi cung ứng đã thành công, thì đầu tư tư nhân vào công nghiệp hỗ trợ chắc chắn sẽ phát triển nhanh trong giai đoạn 2017 - 2020, góp phần vào tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao hơn và xây dựng nền kinh tế xanh.