Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng báo cáo tại phiên họp. |
Đó là nhận định của Chính phủ tại báo cáo đánh giá bổ sung kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022, tình hình những tháng đầu năm 2023, được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến trong phiên họp thứ 23, sáng 9/5.
Thừa uỷ quyền Thủ tướng báo cáo tóm tắt nội dung trên, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng khái quát, tình hình kinh tế - xã hội tháng 4 và 4 tháng năm 2023 đã đạt nhiều kết quả tích cực.
Chính phủ đã đánh giá chi tiết tình hình triển khai thực hiện, từ đó rút ra 9 nhóm kết quả đạt được, 4 nhóm hạn chế, khó khăn chủ yếu trong 4 tháng đầu năm, phân tích nguyên nhân, bối cảnh và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm những tháng cuối năm, Bộ trưởng cho biết.
Phần kết quả, nội dung đầu tiên được Bộ trưởng đề cập là giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn. Lạm phát được kiểm soát ở mức hợp lý.
Thị trường tiền tệ cơ bản ổn định, chủ động điều hành chính sách tiền tệ hỗ trợ giảm mặt bằng lãi suất cho vay, ổn định tỷ giá phù hợp với diễn biến thị trường; bảo đảm an toàn, thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Các cân đối lớn cơ bản được đảm bảo; giải ngân vốn đầu tư công được đẩy mạnh. Tiếp tục nghiên cứu, xác định phương án điều chỉnh giá điện phù hợp để hạn chế tối đa tác động cộng hưởng của việc điều chỉnh giá điện đến lạm phát, chi phí sản xuất, sinh hoạt của người dân, đồng thời bảo đảm nguồn lực đầu tư các dự án nguồn điện, lưới điện cho doanh nghiệp trong nước. Bảo đảm nguồn cung xăng dầu, điện, giữ vững an ninh năng lượng, an ninh lương thực trong nước.
Về khó khăn, hạn chế, Chính phủ nhìn nhận hoạt động sản xuất, kinh doanh, sản xuất công nghiệp, xuất khẩu, đầu tư, thu hút FDI… vẫn còn gặp khó khăn. Tăng trưởng tín dụng thấp cho thấy tình hình sản xuất, kinh doanh gặp khó khăn, khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp, nền kinh tế tiếp tục khó khăn. Mặt bằng lãi suất cho vay dù đã giảm 0,41 điểm % so với cuối năm 2022 nhưng vẫn ở mức cao, bình quân là 9,56%/năm.
Đầu tư tư nhân trong nước và thu hút FDI vẫn còn khó khăn. Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động 4 tháng giảm 2% so với cùng kỳ (gần 78,9 nghìn doanh nghiệp), trong khi doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường tăng 25,1% (77 nghìn doanh nghiệp).
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa tính chung 4 tháng đều giảm, nhất là xuất khẩu sang các thị trường lớn , xuất khẩu sang Trung Quốc 4 tháng giảm 7,9%, trong khi nền kinh tế nước này phục hồi khá tích cực.
Theo Chính phủ, áp lực điều hành kinh tế vĩ mô gia tăng. Tăng trưởng kinh tế thấp hơn kịch bản đề ra; sản xuất, kinh doanh, đầu tư gặp nhiều khó khăn, xuất nhập khẩu giảm… khả năng sẽ tác động đến thu ngân sách nhà nước ngay trong quý II và cả năm.
“Điều hành chính sách tiền tệ có thể khó khăn hơn, nhất là trong bối cảnh chính sách tiền tệ của Mỹ, EU sẽ phức tạp, khó dự báo hơn. Xuất nhập khẩu, thu hút FDI gặp nhiều thách thức khi hầu hết các thị trường xuất khẩu lớn suy yếu, dòng vốn FDI toàn cầu thu hẹp, áp lực cạnh tranh gia tăng”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nêu.
Khó khăn tiếp theo được Chính phủ nhìn nhận là điều hành giá chịu áp lực lớn hơn trước nhu cầu sử dụng điện tăng cao trong mùa nắng nóng sắp tới, cùng với việc dự kiến điều chỉnh giá điện, dịch vụ y tế và các mặt hàng do Nhà nước kiểm soát giá, điều chỉnh chính sách tiền lương có thể tạo áp lực lên đến lạm phát. Tình trạng người lao động rút bảo hiểm xã hội một lần tiếp tục tăng ảnh hưởng tới mục tiêu thực hiện bảo hiểm xã hội toàn dân và chính sách an sinh xã hội.
Trong phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thời gian tới, Chính phủ xác định tiếp tục nhất quán mục tiêu giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Tiếp tục bám sát diễn biến, tình hình quốc tế, khu vực, việc điều chỉnh sách của các nước, đối tác để kịp thời dự báo, xây dựng các kịch bản ứng phó, phản ứng chính sách kịp thời. Chính sách tiền tệ chắc chắn, chủ động, linh hoạt, hiệu quả, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa có trọng tâm, trọng điểm và chính sách vĩ mô khác.
Tiếp tục triển khai các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh thương mại điện tử, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, phát huy các FTA đã ký kết; tranh thủ cơ hội xuất khẩu của từng thị trường, mặt hàng; triển khai hiệu quả các chính sách kích cầu tiêu dùng, phát triển thương mại trong nước. Nghiên cứu, tham mưu các giải pháp thúc đẩy tăng năng suất lao động xã hội; cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư, thu hút FDI trong bối cảnh áp dụng thuế suất tối thiểu toàn cầu.
Tiếp tục triển khai quyết liệt, hiệu quả các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, hoạt động sản xuất kinh doanh đã ban hành. Nắm chắc diễn biến tình hình thế giới, trong nước, kịp thời ban hành, trình cấp có thẩm quyền ban hành các chính sách tài khóa, nhất là về thuế, phí, lệ phí,... chính sách tiền tệ cũng như các chính sách vĩ mô khác để hỗ trợ sản xuất kinh doanh, nền kinh tế, người lao động, bảo đảm an sinh xã hội, Bộ trưởng báo cáo.