Hôm nay, 22/5, Tòa án Nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên phúc thẩm xét đơn kháng cáo của 15 bị cáo, các luật sư, bị đơn dân sự trong vụ án “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng”; “Đưa hối lộ”; “Nhận hối lộ”; “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” và “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”, xảy ra tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đồng Nai, Công ty cổ phần Tiến bộ Quốc tế (AIC) và các đơn vị liên quan.
Các bị cáo bỏ trốn, bị truy nã quốc tế trong vụ án vi phạm quy định về đấu thầu, liên quan tới Công ty AIC, Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai. |
Trong vụ án này, có tới 8 bị cáo đang bỏ trốn, bị truy nã quốc tế nhưng vẫn được đưa ra xét xử vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm được Tòa án Nhân dân TP.Hà Nội mở tháng 12/2022.
Liên quan tới việc Chủ tịch Công ty AIC Nguyễn Thị Thanh Nhàn bị tuyên án vắng mặt, với tổng cộng 30 năm tù về tội “Đưa hối lộ” và “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng”, 4 anh, chị ruột của bị cáo này đã có đơn kháng cáo thay, đề nghị tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
Thêm vào đó, luật sư của bị cáo Nhàn cũng có đơn kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại.
Các bị cáo khác cùng bị xét xử vắng mặt, có đơn kháng cáo gồm: Trần Mạnh Hà, Phó tổng giám đốc Công ty AIC; Nguyễn Đăng Thuyết, cựu Giám đốc Công ty Thành An Hà Nội; Đỗ Mỹ Hạnh, Chủ tịch HĐQT Công ty Cát Vân Sa; Ngô Thế Vinh, Giám đốc Công ty Việt Tiên; Nguyễn Thị Tích, Tổng giám đốc Công ty Mopha; Nguyễn Thị Sen, cựu Giám đốc Công ty Thiết bị y tế và môi trường; Đỗ Văn Sơn, cựu kế toán trưởng Công ty AIC.
Đối với nhóm bị cáo tại tỉnh Đồng Nai, cựu Bí thư tỉnh Trần Đình Thành; cựu Chủ tịch UBND tỉnh Đinh Quốc Thái; cựu Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư Bồ Ngọc Thu không kháng án.
Trong khi đó, chỉ có cựu Giám đốc Sở Y tế, nguyên Giám đốc Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai Phan Huy Anh Vũ là có kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xem xét lại tội danh.
Trước đó, bị cáo Vũ bị cấp sơ thẩm tuyên phạt tổng cộng 19 năm tù về hai tội “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng”, “Nhận hối lộ”. Trong quá trình xét xử, bị cáo này cũng nhiều lần đề nghị tòa xem xét, chỉ xét xử 1 trong 2 tội danh trên.
Công ty Cổ phần Bất động sản AIC - người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cũng đã kháng cáo theo hướng hủy bỏ lệnh kê biên của cơ quan quan điều tra với khu đất hơn 4.000 m2 tại ô đất ở quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội.
Theo doanh nghiệp này, Công ty AIC và Công ty cổ phần Bất động sản AIC là hai pháp nhân độc lập, không có bất kỳ mối liên hệ nào. Công ty AIC cũng chưa bao giờ là chủ sử dụng hay quản lý hợp pháp khu đất trên. Ngoài ra, bà Nguyễn Thị Thanh nhàn không còn là cổ đông và không có bất kỳ quyền lợi, nghĩa vụ nào với Công ty cổ phần Bất động sản AIC kể từ ngày 14/4/2021.
Bên cạnh đó, Công ty AIC cũng có đơn kháng cáo phần dân sự của bản án sơ thẩm, đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm đánh giá lại giá trị thiệt hại mà công ty phải bồi thường.
Các bị cáo có đơn kháng cáo được Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp thuận. |
Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử đề nghị đại diện Viện Kiểm sát nêu quan điểm về việc thời gian qua, dư luận rất quan tâm đến tình tiết các luật sư kháng cáo thay cho bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn và 7 người khác đang bỏ trốn và không có mặt ở phiên phúc thẩm.
Đại diện Viện Kiểm sát nhấn mạnh, liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bị cáo trong vụ án, đặc biệt là 8 bị cáo bỏ trốn và đang bị truy nã, Tòa án Nhân dân TP.Hà Nội đã xét xử và đánh giá hành vi của họ theo đúng quy định. Quá trình tố tụng, gia đình các bị cáo cũng đã biết đến vụ án này.
Dẫn Điều 345 Bộ luật Tố tụng hình sự, Viện Kiểm sát nêu rõ nội dung tòa phúc thẩm nếu xét thấy cần thiết, có thể xem xét các phần khác của bản án, quyết định không bị kháng cáo, kháng nghị.
Ngoài ra, sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo đã có kháng cáo đúng quy trình. Dù họ bỏ trốn và không có mặt, nhưng Viện Kiểm sát cho biết, theo quy định của pháp luật và xét nguyên tắc có lợi nhất cho các bị cáo, Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo đúng quy định.
Sau khi xem xét hội ý đối với các đề nghị trên, Hội đồng xét xử cho rằng, từ khi chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện việc tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử đối với các bị cáo bị truy nã theo đúng thủ tục, đồng thời yêu cầu các bị cáo ra đầu thú để được hưởng sự khoan hồng của pháp luật nhưng cho đến phiên tòa hôm nay, các bị cáo vẫn vắng mặt.
Do các bị cáo bổ trốn và bị truy nã, việc truy nã không có kết quả, nên Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử vắng mặt các bị cáo theo đúng quy định tại điểm a khoản 2 Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự. Sau khi xét xử sơ thẩm, bản án sơ thẩm được niêm yết công khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy các bị cáo bỏ trốn từ giai đoạn điều tra, bị Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã, đến nay chưa có kết quả, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử vắng mặt các bị cáo, thực hiện việc niêm yết bản án (để thực hiện quyền kháng cáo của những người vắng mặt) theo đúng quy định của pháp luật.
Theo nhận định của Hội đồng xét xử, các bị cáo đều không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 331 Bộ luật Tố tụng hình sự (là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất). Sau khi xét xử sơ thẩm, do các bị cáo vắng mặt nên Tòa án cấp sơ thẩm đã niêm yết công khai bản án tại nơi cư trú của các bị cáo theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 262 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tuy nhiên, hết thời hạn kháng cáo, Tòa án cấp sơ thẩm không nhận được đơn kháng cáo của các bị cáo vắng mặt. “Theo quy định của pháp luật, trong trường hợp này, kháng cáo phải do các bị cáo tự thực hiện, người bào chữa, cũng như thân nhân của các bị cáo không có quyền kháng cáo cho bị cáo”, Chủ tọa Mai Anh Tài phân tích.
Ngoài ra, Hội đồng xét xử cũng cho biết, việc các bị cáo bỏ trốn, bị truy nã, đến nay chưa có kết quả cũng đã thể hiện việc các bị cáo tự từ bỏ quyền của bị can, bị cáo theo quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự, trong đó có quyền kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm theo quy định trong Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm đủ căn cứ xác định trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị, phần quyết định của bản án sơ thẩm đối với các bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn, Trần Mạnh Hà, Nguyễn Đăng Thuyết, Đỗ Mỹ Hạnh, Ngô Thế Vinh, Nguyễn Thị Tích, Nguyễn Thị Sen, Đỗ Văn Sơn không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo đó, căn cứ vào quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm nêu trong Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy không có căn cứ để chấp nhận việc những người bào chữa có đơn kháng cáo cho các bị cáo nêu trên. Các quyết định của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đối với các bị cáo nêu trên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Đối với các bị cáo Nguyễn Đăng Thuyết, Ngô Thế Vinh, theo Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm có tiếp nhận lưu trong hồ sơ thể hiện có đơn đề “Đơn kháng cáo”, người gửi Nguyễn Đăng Thuyết, Ngô Thế Vinh, phong bì đựng đơn được gửi từ nước Mỹ.
Tuy nhiên, cấp phúc thẩm xét thấy những đơn này không có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền (Cục lãnh sự hoặc cơ quan đại diện ngoại giao...). Mặt khác, đến nay các bị cáo chưa ra trình diện trước pháp luật, không có tài liệu nào chứng minh các bị cáo đã nhập cảnh về Việt Nam, cũng như không có căn cứ chứng minh về nhân thân của các bị cáo.
Vì vậy, HĐXX cấp phúc thẩm nhận định: “Không đủ căn cứ chấp nhận xem xét theo thủ tục xét xử phúc thẩm đối với các bị cáo Nguyễn Đăng Thuyết, Ngô Thế Vinh”.