Ngân hàng - Bảo hiểm
Loạt ngân hàng báo lãi quý II/2023; Kiến nghị bơm tín dụng bất động sản
Thùy Liên - 23/07/2023 09:41
Ngoài ra, các vấn đề, như chuyên gia cảnh báo một số rủi ro khi tiền tệ nới lỏng, nợ xấu vọt tăng, triển vọng các kênh đầu tư cuối năm... cũng là tâm điểm ngân hàng tuần qua.
Lãi suất rẻ, đầu tư vào đâu để sinh lời hiệu quả  

Bất chấp việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có thể tăng lãi suất sau phiên họp chính sách diễn ra ngày 25 và 26/7, mặt bằng lãi suất trong nước tiếp tục hạ nhiệt. Ngày 19/7, lãi suất liên ngân hàng chỉ còn 0,39% ở kỳ hạn qua đêm, thấp ngang thời điểm bắt đầu đại dịch Covid-19. Mặc dù tiền gửi vào ngân hàng của dân cư vẫn tăng cao, song dự kiến cuối năm nay, khi các khoản tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn 1 năm bắt đầu đáo hạn, dòng tiền tái tục vào ngân hàng sẽ giảm và có xu hướng tìm đến các kênh đầu tư hấp dẫn hơn.

Theo ông Phan Dũng Khánh, chuyên gia kinh tế, nếu năm 2022, tiết kiệm là kênh đầu tư hấp dẫn và hiệu quả nhất, thì nửa đầu năm nay, chứng khoán là kênh đầu tư sáng giá nhất trong bối cảnh lãi suất huy động giảm, thị trường vàng, ngoại hối đứng yên, bất động sản chưa phục hồi.

Thực tế, thị trường chứng khoán hồi phục khá rõ ràng nửa đầu năm nay, một phần nhờ lãi suất rẻ, dòng tiền quay lại thị trường. Lượng tài khoản cá nhân mở mới tăng thêm hơn 105.000 tài khoản trong tháng 5/2023 và 146.000 tài khoản trong tháng 6/2023, cho thấy sự trở lại của dòng tiền. Nhiều chuyên gia kinh tế nhận định, nửa cuối năm nay, nếu mặt bằng lãi suất giảm, GDP phục hồi, thị trường chứng khoán sẽ đi lên dù mức độ không mạnh. Sang năm 2024, nếu kinh tế vĩ mô “ngấm” các chính sách hỗ trợ, thì chứng khoán sẽ bật tăng mạnh.

Ông Hoàng Công Tuấn, Kinh tế trưởng Công ty cổ phần Chứng khoán MB (MBS) nhận định, rủi ro với thị trường chứng khoán đã giảm đáng kể nhờ lãi suất giảm và dòng tiền tham gia thị trường nhiều hơn. Dù vậy, chuyên gia này cảnh báo nhà đầu tư thận trọng với “con gió ngược” bởi một số công ty niêm yết sẽ phải đối mặt với kết quả kinh doanh kém khả quan quý II/2023. 

Về trung hạn, thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn được đánh giá là hấp dẫn nhờ chính sách nới lỏng tiền tệ thực hiện sớm hơn nhiều quốc gia khác, cộng thêm nhiều giải pháp hỗ trợ tài khóa (giảm thuế phí, thúc đẩy giải ngân đầu tư công…). Riêng với thị trường bất động sản, tình hình sẽ khó sôi động trở lại năm nay hoặc đầu năm tới, dù đã qua giai đoạn khó khăn nhất.

“Trong 6 tháng cuối năm 2023 và năm 2024, thị trường bất động sản dự kiến vẫn còn nhiều khó khăn và tiềm ẩn rủi ro lớn, các Dự án vẫn đang trong quá trình hoàn thiện pháp lý, chủ đầu tư chưa hoàn thiện xây dựng, bàn giao sản phẩm theo đúng kế hoạch, niềm tin của người mua nhà suy giảm”, ông Phạm Như Ánh, Tổng giám đốc MB nhận định. 

Điểm sáng của thị trường bất động sản là một số phân khúc đã phục hồi nhẹ sau một thời gian dài đóng băng. TS. Nguyễn Hữu Huân, Giảng viên Trường đại học Kinh tế TP.HCM cũng cho rằng, chưa thể kỳ vọng thị trường bất động sản sớm rã băng khi tiền chảy vào thị trường này còn nhỏ giọt. Song với nhà đầu tư đang có sẵn tiền mặt nhàn rỗi, đây là thời điểm thích hợp để “xuống tiền” do nhiều bất động sản đã chiết khấu khá lớn.

Với bất động sản, nhà đầu tư có thể phải chấp nhận giá chưa thể tăng mạnh thời gian tới, dù thanh khoản thị trường cải thiện hơn. Hơn nữa, bất động sản không phải là lựa chọn với đa số nhà đầu tư vì đòi hỏi vốn lớn. Với nhà đầu tư có vốn nhỏ, đầu tư một phần vào chứng khoán là lựa chọn hợp lý thời điểm này. 

Mặc dù thị trường đang có nhiều cơ hội sinh lời hấp dẫn, song đầu tư vào đâu để đồng tiền sinh lời một cách hiệu quả đang là câu chuyện làm đau đầu các nhà đầu tư.

Ông Phan Lê Thành Long, CEO AFA Group, đồng sáng lập Cộng đồng Cố vấn tài chính Việt Nam (VWA) cho rằng, trong quá trình đầu tư, mọi hoạt động đầu tư đều hàm chứa rủi ro. Việc phân bổ theo các lớp tài sản sẽ giúp nhà đầu tư giảm thiểu rủi ro, có lợi nhuận đều đặn và ổn định theo thời gian. Để có kế hoạch phân bổ vốn hiệu quả, đầu tiên, nhà đầu tư cần phải hiểu rất rõ khẩu vị rủi ro của chính mình, từ đó lựa chọn phân bổ các kênh đầu tư.

Về các kênh đầu tư từ nay đến cuối năm 2023, ông Phan Lê Thành Long cho rằng, với vàng, nhà đầu tư vẫn nên nắm giữ như một tài sản bảo vệ, song tỷ trọng nắm giữ tối đa chỉ 10%. Lãi suất tiết kiệm từ nay đến cuối năm tiếp tục giảm, sẽ hỗ trợ thị trường chứng khoán phục hồi, song về dài hạn nhà đầu tư cần lưu ý về tình hình sản xuất - kinh doanh thực sự của các doanh nghiệp.

Riêng thị trường bất động sản sẽ tiếp tục trầm lắng, song với môi trường lãi suất thấp, các bất động sản có dòng tiền ổn định, có mức giá chiết khấu tốt có thể mang lại hiệu suất đầu tư cao. Mỗi nhà đầu tư có thể tùy theo vốn, mục tiêu và khẩu vị rủi ro của mình để phân bổ đầu tư phù hợp.

Thay vì mạo hiểm đầu tư theo “hệ tâm linh” hoặc theo các hội nhóm, nhiều nhà đầu tư đang có xu hướng tìm đến các cố vấn tài chính để giảm bớt rủi ro và mang lại hiệu quả sinh lời cao nhất. Điều này thúc đẩy ngành quản lý tài sản Việt Nam tăng trưởng mạnh.

Theo ông Nguyễn Minh Tuấn, CEO AFA Capital, thực tế, các nhà đầu tư tìm đến AFA Capital là những người có công việc, sự nghiệp thuộc nhiều lĩnh vực, không có nhiều thời gian để tìm hiểu sâu về các kênh đầu tư. Nhu cầu quản lý tài sản, tư vấn đầu tư tài chính không chỉ ở các khách hàng sở hữu tiền tỷ, mà còn đến từ các khách hàng sở hữu tài sản 700 - 800 triệu đồng.

Được biết, tổng tài sản quản lý (AUM) của riêng các quỹ đầu tư tại Việt Nam trong giai đoạn 2017 - 2022 tăng trưởng bình quân 25%/năm, đạt 23,25 tỷ USD vào cuối năm 2022, tương ứng 2,44% GDP. Dư địa tăng trưởng ngành này còn rất lớn, vì sản phẩm của thị trường quản lý tài sản Việt Nam hiện còn ít, đối tượng tham gia còn nhỏ bé.

Báo cáo từ Allied Market Research dự đoán, thị trường quản lý tài sản tại Việt Nam sẽ có tốc độ tăng trưởng kép hàng năm là 31,6% trong giai đoạn 2021 - 2030, nhanh nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Bên cạnh sự phát triển về số lượng các công ty quản lý quỹ lớn như Vina Capital, Dragon Capital..., các công ty chứng khoán như TCBS, VCBS, SSIAM, HSC, VNDirect... đã và đang đẩy mạnh dịch vụ quản lý tài sản, phát triển mô hình tư vấn, cung cấp các giải pháp đầu tư đa dạng, được cá nhân hóa cho từng khách hàng. Đi cùng với nhu cầu đầu tư tài chính lớn dần của người dân, ngành quản lý tài sản ở Việt Nam ngày càng mở rộng và còn nhiều dư địa phát triển.

Trong tương lai, dịch vụ quản lý tài sản tiếp tục phát triển mạnh với các sản phẩm đa dạng hơn. Với lớp khách hàng trung lưu và khách hàng VIP, quản lý gia sản sẽ trở thành một lựa chọn vì có thể cung cấp cho nhà đầu tư một kế hoạch tài chính an toàn, bền vững, theo sát và điều chỉnh trước các biến động của thị trường.

Theo quan điểm của các chuyên gia tài chính, với nhà đầu tư, tiếp cận dịch vụ quản lý gia sản càng sớm càng tốt vì sẽ giúp mỗi người nâng cao khả năng quản lý tài chính cá nhân của mình. Các bạn trẻ chưa có vốn đầu tư vẫn có thể tiếp cận ngành quản lý gia sản bằng cách trang bị kiến thức để có phương pháp gây dựng tài sản cho mình sớm nhất có thể, như cách tạo nên tài sản vô hình hay cách tích lũy tài sản đầu tư chỉ từ vốn 2-3 triệu đồng/tháng.

“Còn với nhà đầu tư sở hữu tài sản lớn, tiếp cận quản lý gia sản càng cần thiết vì sẽ giúp họ hoạch định kế hoạch lâu dài mà không mất nhiều chi phí so với cơ hội nhận về”, ông Phan Lê Thành Long đưa ra lời khuyên.

Nới lỏng tiền tệ: Chuyên gia cảnh báo 3 rủi ro và nguy cơ bị vô hiệu hóa

Đánh giá cao sự chuyển hướng chính sách tiền tệ sang nới lỏng song các chuyên gia kinh tế cho rằng, điều này không có nghĩa là “đồng tiền dễ dãi”. Chưa kể, nếu không có sự đồng bộ, chính sách nới lỏng tiền tệ có nguy cơ bị chính sách khác triệt tiêu.

Bất chấp Fed có khả năng tăng lãi suất tại phiên họp chính sách cuối tháng 7 tới, Chính phủ đang chuyển trạng thái chính sách tiền tệ từ “thắt chặt”, “chắn chắn” sang "linh hoạt, nới lỏng hơn".

TS. Võ Trí Thành.

Tại Hội nghị Chính phủ với địa phương 6 tháng đầu năm 2023, Chính phủ đã nhất cao chuyển chính sách tiền tệ từ trạng thái kiểm soát "chặt chẽ", "chắc chắn" ở những thời điểm trước đó sang trạng thái "linh hoạt, nới lỏng hơn". Việc điề
|u chỉnh này là rất kịp thời, đáp ứng yêu cầu cấp thiết tháo gỡ khó khăn về thanh khoản, tín dụng, thúc đẩy phục hồi, phát triển sản xuất kinh doanh và phù hợp với thực tiễn. 

TS. Võ Trí Thành, chuyên gia kinh tế nhận định, hiện chính sách đang có sự chuyển hướng, cả về chính sách tài khóa và tiền tệ đều hướng vào việc hỗ trợ tăng trưởng. Tuy nhiên, chính sách tài khóa có dư địa còn khá lớn, nhất là lĩnh vực đầu tư công bởi chúng ta đang trong cảnh "có tiền mà không tiêu được".

Về chính sách tiền tệ, liều lượng nới lỏng ra sao đang là vấn đề gây tranh cãi. TS. Võ Trí Thành cho rằng, vẫn còn dư địa nới lỏng chính sách tiền tệ, hạ lãi suất, cụ thể lãi suất có thể giảm từ 1-1,5 điểm phần trăm từ nay đến cuối nay song nguyên tắc nới lỏng sẽ là không để "đồng tiền dễ dãi", bởi có thể sẽ có 3 rủi ro khi chúng ta nới lỏng chính sách tiền tệ.

Thứ nhất, nới lỏng tiền tệ song vẫn phải kiểm soát lạm phát mục tiêu.

Thứ hai, nới lỏng tiền tệ song vẫn phải “dè chừng” tỷ giá (thực tế tỷ giá có thời điểm đã tăng nóng cách đây 1-2 tuần).

Thứ ba, nới lỏng tiền tệ song trong bất cứ tình huống nào cũng phải bảo đảm an toàn hệ thống.

Mặt khác, giảm lãi suất cũng không phải liều thuốc vạn năng mặc dù rất quan trọng, mà cần kết hợp với nhiều chính sách khác như kích cầu tiêu dùng, hỗ trợ người lao động, kích cầu du lịch, đầu tư công, giải quyết khó khăn cho xuất khẩu; tạo điều kiện để người dân và doanh nghiệp tiếp cận vốn tốt hơn (có gói hỗ trợ tín dụng mà không ảnh hưởng lớn đến tổng cung tiền, hướng đến các lĩnh vực như nhà ở xã hội, lâm thủy sản…).

Với góc nhìn doanh nghiệp, ông Đậu Anh Tuấn, Phó tổng Thư ký, Trưởng ban Pháp chế, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng, điều quan trọng nhất là phải có sự đồng bộ về mặt chính sách.

"Với doanh nghiệp, đồng bộ nhóm chính sách rất quan trọng. Chẳng hạn như chúng ta rất cố gắng để giảm lãi suất, chi phí vay nhưng ở đâu đấy vẫn có những chính sách làm tăng chi phí rất lớn, thậm chí ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn của doanh nghiệp. Hiện nay doanh nghiệp rất nhiều ngành hàng nói về vấn đề hoàn thuế giá trị gia tăng chậm, trực tiếp ảnh hưởng tới doanh nghiệp rất lớn về dòng vốn. Quốc hội vừa có Nghị quyết giảm 2% thuế VAT, đây là một nỗ lực rất lớn nhưng hiện nay với nhiều ngành hàng, một số cơ quan quản lý nhà nước đang rục rịch tăng phí, thu lại phí. Như vậy chúng ta phải phát huy sự nhịp nhàng của chính sách. Tôi cho rằng, cần quản trị tốt lĩnh vực này thì mới điều phối tốt, và cộng hưởng chính sách là điều rất quan trọng trong thời gian tới", ông Tuấn cảnh báo.

Tán thành ý kiến này, TS. Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội cho rằng, nếu không đồng bộ, có thể chính sách nới lỏng tiền tệ sẽ bị các chính sách khác vô hiệu hóa, triệt tiêu. Doanh nghiệp được giảm vài đồng lãi suất song lại tăng mấy đồng phí.  

“Tất nhiên các doanh nghiệp phải chủ động tiếp cận và hoàn thiện quy trình, phải thạo việc vay tiền, đồng thời cũng phải bám sát. Tôi cũng biết là đa số doanh nghiệp đều nói là lãi suất công khai là một chuyện, lãi suất thực tế là một chuyện khác, cái đó không biết là giảm được bao nhiêu. Tình trạng đó cũng cần khắc phục. Nhưng dù sao đi nữa, sự linh hoạt chính sách tiền tệ hiện nay là một động lực để kinh tế tăng trưởng”, chuyên gia này kỳ vọng.

Cung tiền 6 tháng chỉ tăng 2,7%, chuyên gia kiến nghị giải pháp tăng tiền ra nền kinh tế

Cung tiền quá chậm, kinh tế khó khăn buộc Chính phủ chuyển trạng thái chính sách tiền tệ từ “thắt chặt”, “chắn chắn” sang "linh hoạt, nới lỏng hơn". Tuy vậy, nới lỏng sao cho hiệu quả là vấn đề đặt ra.

TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV cho hay, tính đến ngày 30/6, cung tiền (M2) của cả nước mới tăng 2,7%, thấp hơn so với mức 3,8% cùng kỳ năm trước và thấp hơn rất nhiều mức 7% của năm 2019. Con số này cho thấy, việc cung tiền ra nền kinh tế rất thấp.

TS. Cấn Văn Lực.

Chỉ số thứ hai cũng đang ở mức thấp là vòng quay tiền. Vòng quay tiền 6 tháng đầu năm của Việt Nam chỉ đạt 0,67 lần, tức là tương đương vòng quay tiền thấp của cả năm 2022. “So với thời kỳ nền kinh tế tăng trưởng tốt, vòng quay đồng tiền trên 1 lần thì rõ ràng vòng quay tiền đang chậm. Hiện nay, chúng ta cũng không cần lo câu chuyện lạm phát. Tất nhiên từ đây đến cuối năm, lượng cung tiền được tung ra nhiều hơn, vòng quay tiền nhanh hơn một chút”, TS. Lực nhận định.

Cũng theo chuyên gia này, lạm phát thế giới đang giảm, nguy cơ nhập khẩu lạm phát vì vậy không đáng ngại, lạm phát cả năm của nước ta chỉ khoảng 3,5-4%, giúp nhà điều hành có thể yên tâm kích thích tăng trưởng.

Hiện tại, Chính phủ đã chuyển trạng thái chính sách tiền tệ từ chặt chẽ sang nới lỏng hơn (Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6/2023 và Hội nghị trực tuyến Chính phủ với địa Phương - Nghị quyết  97/NQ-CP). Công điện 644 cũng nêu rõ, tín dụng tiếp tục tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên, bao gồm 5 lĩnh vực ưu tiên (xuất khẩu, nông nghiệp, công nghệ cao, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ) và 3 động lực tăng trưởng của nền kinh tế. 

Theo đánh giá của các chuyên gia, quyết định “chuyển trạng thái” chính sách tiền tệ của Chính phủ như trên là rất phù hợp, dựa trên 3 yếu tố: Lạm phát trên thế giới về cơ bản đã chững lại và đang giảm giá khiến áp lực lạm phát và tỷ giá trong nước cũng giảm; Kinh tế 6 tháng vừa qua mặc dù có tiến triển hơn nhưng vẫn còn khó khăn, cần thay đổi chính sách phù hợp để phục hồi và hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế; yêu cầu phải phối hợp đồng bộ hơn với các chính sách khác, trong đó có chính sách tài khóa, giải ngân vốn đầu tư công và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. 

Tuy vậy, ngay cả khi tiền được bơm ra, việc doanh nghiệp có hấp thụ được vốn hay không cũng là vấn đề nan giải.

Ông Đậu Anh Tuấn, Phó tổng Thư ký, Trưởng ban Pháp chế, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) chỉ ra thực tế, hiện nay sức khỏe của doanh nghiệp của nhiều ngành hàng đang rất gay go. Trong bối cảnh này, rõ ràng dòng vốn nên tập trung vào những ngành hàng đang tiềm năng, đang tăng trưởng tốt. Theo đó, các ngân hàng và các ngành hàng cần chủ động hợp tác với nhau để "đẩy" dòng vốn.

Để ngân hàng, doanh nghiệp gặp nhau, theo ông Tuấn, doanh nghiệp phải nâng cao khả năng quản trị, minh bạch sổ sách, phía ngân hàng cũng hạn chế các loại phí, các ràng buộc hợp đồng khác.

Đầu tư công, bất động sản sẽ “cứu” tín dụng ngân hàng?

Đòn bẩy tín dụng được kỳ vọng là giải pháp khả dĩ nhất lúc này để vực dậy thị trường bất động sản, cũng là để khơi thông dòng vốn và phục hồi nền kinh tế.

Phát biểu tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ ngành ngân hàng 6 tháng cuối năm mới đây, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chỉ đạo, thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, nới lỏng hơn, có trọng tâm, trọng điểm và có kiểm soát.

Trước đó, tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc Chính phủ với các địa phương và phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6/2023, Thủ tướng cũng yêu cầu NHNN tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, nới lỏng, tăng cung tiền, tăng tín dụng, giảm mặt bằng lãi suất cho vay.

Tuy vậy, làm thế nào để bơm tiền ra nền kinh tế trong bối cảnh nhu cầu đầu tư, tiêu dùng của doanh nghiệp và người dân đều sút giảm là câu hỏi rất khó. Tính cuối tháng 6/2023, tín dụng toàn hệ thống chỉ tăng 4,73% dù thanh khoản và room tín dụng dư thừa.

Hiện ngành khát vốn nhất là bất động sản, cầu vay vốn rất cao, song rủi ro lớn, đặc biệt là rủi ro pháp lý, khiến ngân hàng không dám cho vay. Trong khi đó, các ngành sản xuất rủi ro ít hơn lại không có nhu cầu vay vốn do không có đơn hàng.

Không thể cho vay sản xuất, không muốn cho vay bất động sản, vậy ngân hàng rót vốn vào đâu?

Kỳ vọng tín dụng chảy vào bất động sản sẽ cải thiện hơn thời gian tới.

TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế cho rằng, trong bối cảnh cầu đầu tư, xuất khẩu đều suy giảm, giải pháp khả dĩ để kích thích tổng cầu là đẩy mạnh triển khai Chương trình Phục hồi và Phát triển kinh tế - xã hội năm 2022 - 2023 và “thúc” giải ngân đầu tư công, nhất là các dự án trọng điểm, có tính lan tỏa cao như dự án đầu tư cơ sở hạ tầng. Việc đẩy nhanh đầu tư công cũng sẽ giúp tín dụng ngân hàng lan tỏa.

Ông Nguyễn Thanh Tùng, Tổng giám đốc Vietcombank kỳ vọng, nửa cuối năm, tín dụng ngân hàng này sẽ tăng trưởng mạnh hơn nhờ tham gia thu xếp vốn cho một loạt dự án trọng điểm quốc gia.

Tuy nhiên, không phải ngân hàng TMCP nào cũng có thể tham gia thu xếp, tài trợ vốn cho các dự án đầu tư công. Với các ngân hàng TMCP tư nhân, thúc đẩy hoạt động cho vay tiêu dùng được kỳ vọng là động lực tăng trưởng lúc này.

Ông Nguyễn Đức Vinh, Tổng giám đốc VPBank cho rằng, trong bối cảnh hai động lực tăng trưởng là đầu tư và xuất khẩu đều khó khăn, giải pháp quan trọng nhất là kích cầu tiêu dùng nội địa. Tuy nhiên, với giải pháp này, ngành ngân hàng không thể tự giải quyết được, mà cần sự chung tay của nhiều bộ, ngành trong “hạ chuẩn” cho vay, phát triển các hình thái cho vay tiêu dùng và bảo vệ quyền lợi của bên cho vay.

Dù bất động sản đang gặp khó khăn, song không thể phủ nhận, đây vẫn là đầu ra quan trọng và khả dĩ nhất với nhiều ngân hàng hiện nay. Ông Phạm Như Ánh, Tổng giám đốc MB cho hay, tín dụng bất động sản đang chiếm 27,5% tổng dư nợ cho vay của ngân hàng này.

“MB xác định, bất động sản là lĩnh vực có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, ảnh hưởng rất lớn đến các ngành, nghề khác, nên vẫn dành room tín dụng để tài trợ cho lĩnh vực này. Chúng tôi định hướng ưu tiên bất động sản nhà ở phân khúc trung bình, phục vụ nhu cầu để ở của người dân và bất động sản khu công nghiêp, khu chế xuất”, ông Ánh cho biết.

Theo lãnh đạo nhiều ngân hàng thương mại, từ đầu năm đến nay, các ngân hàng vẫn tích cực tìm kiếm các dự án tốt để đẩy mạnh cho vay bất động sản, song việc giải ngân không dễ dàng do hầu hết các dự án đều gặp vướng mắc về pháp lý. Chính vì vậy, đẩy nhanh xử lý vướng mắc pháp lý, tăng cấp phép cho các dự án mới là vấn đề sống còn với doanh nghiệp bất động sản hiện nay và tác động mạnh đến tăng trưởng tín dụng ngân hàng thời gian tới.

Mặc dù Chính phủ đã chỉ đạo các địa phương, bộ, ngành tháo gỡ các vướng mắc này, song tiến độ giải quyết còn chậm. Theo phản ánh của các ngân hàng, hiện hầu hết khách hàng là chủ đầu tư không hoàn thiện được dự án theo tiến độ dự kiến do vướng mắc pháp lý, khó khăn về nguồn vốn triển khai, áp lực nợ và trái phiếu đến hạn lớn, sụt giảm doanh thu.

Trong khi đó, phân khúc tín dụng tiêu dùng bất động sản - từng là động lực tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng nhiều năm qua - có dấu hiệu chậm lại. Thống kê của NHNN cho thấy, 5 tháng đầu năm nay, tín dụng kinh doanh bất động sản tăng 14%, song tín dụng tiêu dùng bất động sản giảm 1,32% (cùng kỳ năm ngoái tăng tới 15%).

“Niềm tin của người mua nhà suy giảm ảnh hưởng trực tiếp tới nhu cầu vay vốn, tuân thủ cam kết thanh toán theo hợp đồng mua bán với chủ đầu tư và cam kết trả nợ vay với ngân hàng”, ông Phạm Như Ánh nói.

Ngoài vấn đề niềm tin, khảo sát của Báo Đầu tư cho thấy, sở dĩ người dân chưa sẵn sàng vay mua nhà trở lại là bởi mặt bằng lãi vay mua nhà vẫn phổ biến ở mức 12,5-14%/năm, trong khi thu nhập sút giảm. Mặc dù ngành ngân hàng đã tung ra gói tín dụng nhà ở xã hội 120.000 tỷ đồng, song giải ngân còn nhỏ giọt, bởi đây vẫn là gói tín dụng thương mại, lãi suất ưu đãi chỉ được áp dụng năm đầu, chưa kể số lượng dự án nhà ở xã hội còn khan hiếm.

Theo Hiệp hội Bất động sản TP.HCM (HoREA), nửa đầu năm nay, hoạt động kinh doanh bất động sản tiếp tục tăng trưởng âm dù đã giảm đà rơi. Theo đó, HoREA kiến nghị một loạt giải pháp để tín dụng thành đòn bẩy tháo gỡ khó khăn cho bất động sản.

Cụ thể, NHNN cần cho phép ngân hàng thương mại mua lại trái phiếu để đảo nợ, bãi bỏ một số quy định về tổ chức tín dụng không được cho vay trong Thông tư 06/2023/TT-NHNN vừa được ban hành. Đồng thời, HoREA kiến nghị hoãn thời điểm áp dụng tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn lên 20% sang năm 2024 thay vì ngày 1/10/2023…

Tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ ngành ngân hàng 6 tháng cuối năm, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo ngành ngân hàng tham gia tích cực hơn trong tháo gỡ khó khăn, phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp và bất động sản, giúp các thị trường này phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững.

HoREA kiến nghị sửa một loạt thông tư để "bơm" tín dụng bất động sản

Hiệp hội bất động sản TP.HCM (HoREA) cho rằng một số thông tư mới ban hành của NHNN sẽ khiến doanh nghiệp bất động sản và người mua nhà khó tiếp cận tín dụng hơn.

Mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 97/NQ-CP ngày 08/07/2023 của Chính phủ về “Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6 năm 2023 và Hội nghị trực tuyến Chính phủ với địa phương”. Nghị quyết đã giao nhiệm vụ cho ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, nới lỏng phù hợp, kịp thời, hiệu quả, phối hợp đồng bộ, chặt chẽ, hài hòa với chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả, nhanh chóng, dứt khoát để ưu tiên tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.

HoREA cho rằng, việc chính sách tiền tệ chuyển sang trạng thái linh hoạt, nới lỏng hơn trong điều kiện hiện nay là cần thiết và cũng là cơ hội cho các doanh nghiệp, người tiêu dùng và nhà đầu tư trong giai đoạn hiện nay.

Với bất động sản, báo cáo 6 tháng đầu năm 2023 của  Bộ Xây dựng cho thấy, bức tranh của thị trường vẫn rất khó khăn, đặc biệt là trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng, phát hành trái phiếu và huy động vốn của khách hàng, dẫn đến doanh nghiệp thiếu vốn, phải giãn tiến độ, dừng triển khai thực hiện Dự án, cắt giảm lao động. Trong 5 tháng đầu năm 2023 đã có khoảng 88.000 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường tăng 22,6% và số doanh nghiệp thành lập mới giảm khoảng 50% so với cùng kỳ năm 2022 và vốn đăng ký mới của doanh nghiệp cũng giảm mạnh. Trong 6 tháng đầu năm, chỉ có khoảng 187.000 giao dịch thành công, giảm 63,87%, chủ yếu tập trung ở phân khúc đất nền, trong đó số lượng giao dịch nhà ở chung cư và nhà ở riêng lẻ giảm đến 59,31% so với 06 tháng cuối năm 2022.

Trong bối cảnh thị trường trầm lắng, HoREA kỳ vọng các giải pháp đòn bẩy tín dụng sẽ có tác động lan tỏa tới thị trường, đặc biệt là tăng tổng cầu và tăng niềm tin cho nhà đầu tư.

“Tín dụng tiêu dùng bất động sản sụt giảm trong 6 tháng đầu năm 2023 so với cùng kỳ năm trước đã cho thấy người mua nhà và nhà đầu tư bất động sản khó tiếp cận tín dụng hoặc giảm nhu cầu tín dụng có liên quan đến tâm lý “giảm niềm tin thị trường”, mà nếu có cơ chế hỗ trợ về tín dụng sẽ giúp làm tăng “sức mua” và tăng “tổng cầu” cho thị trường bất động sản”, HoREA kỳ vọng.

Để triển khai Nghị quyết 97 của Chính phủ, có thể đẩy mạnh bơm tín dụngra thị trường, HoREA đề nghị NHNN sửa 3 Thông tư: Thông tư 06/2023/TT-NHNN, Thông tư 03/2023/TT-NHNN và Thông tư 08/2020/TT-NHNN.

Thứ nhất, Thông tư số 06/2023/TT-NHNN có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/9/2023. Theo HoREA, việc bổ sung thêm nhiều quy định cấm cho vay trong Thông tư giống như dựng thêm “rào chắn”, khiến việc tiếp cận tín dụng khó khăn hơn so với trước đây, dẫn đến tình trạng một số doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực của nền kinh tế có nhu cầu vay vốn, trong đó có các doanh nghiệp bất động sản, người mua nhà, nhà đầu tư bất động sản.

Theo ông Châu, tiếp cận vốn tín dụng là “phao cứu sinh” để vượt qua khó khăn hiện nay, bởi lẽ thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang rất khó khăn. Tuy nhiên, Thông tư 06 sẽ khiến doanh nghiệp không thể vay vốn.

Đơn cử, Thông tư 06 quy định cấm tổ chức tín dụng cho vay “để thanh toán tiền góp vốn, mua, nhận chuyển nhượng phần vốn góp của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh”. Hiệp hội cho rằng, quy định trên không đúng, không phù hợp thực tế, không bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với khoản 2 Điều 5 Nghị định số 153/2020/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung tại khoản 2 Điều 1 Nghị định 65/2022/NĐ-CP).

Thông tư 06 cũng bổ sung quy định tổ chức tín dụng không được cho vay “để thanh toán tiền góp vốn theo hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác đầu tư hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh để thực hiện dự án đầu tư không đủ điều kiện đưa vào kinh doanh theo quy định của pháp luật tại thời điểm tổ chức tín dụng quyết định cho vay. Hiệp hội cho rằng, với các quy định hiện hành Bộ Luật Dân sự 2015 và Luật Đầu tư 2020 thì việc cá nhân, pháp nhân “góp vốn theo hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác đầu tư hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh” tại mọi giai đoạn thực hiện dự án đều hợp pháp, nên Hiệp hội đề nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét cho phép tổ chức tín dụng được cho vay “để góp vốn theo hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác đầu tư hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh” và phải có tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về tín dụng.

Tuy nhiên, để kiểm soát rủi ro thì đề nghị Ngân hàng Nhà nước quy định tổ chức tín dụng có trách nhiệm quy định cụ thể việc cho vay theo tình trạng pháp lý của từng dự án, ví dụ Dự án A đã có “quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư” thì tổ chức tín dụng có thể cho vay với tỷ lệ không quá 30% tổng mức đầu tư, hoặc Dự án B đã có “Giấy phép xây dựng” thì tổ chức tín dụng có thể cho vay với tỷ lệ không quá 50% tổng mức đầu tư…

Ngoài ra, quy định tổ chức tín dụng không được cho vay “để thanh toán tiền góp vốn để thực hiện dự án đầu tư không đủ điều kiện đưa vào kinh doanh theo quy định của pháp luật tại thời điểm tổ chức tín dụng quyết định cho vay” cũng chưa đồng bộ, thống nhất với Điều 55 và Điều 57 Luật Kinh doanh bất động sản 2014 quy định phải đảm bảo “điều kiện của bất động sản hình thành trong tương lai được đưa vào kinh doanh” thì mới được giao dịch và thực hiện “thanh toán trong mua bán, thuê mua bất động sản hình thành trong tương lai”.

Bởi lẽ, sau khi chủ đầu tư đã bỏ ra một khoản tiền rất lớn để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của dự án và đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền “chấp thuận chủ trương đầu tư, cấp phép xây dựng” thì đây là thời điểm mà chủ đầu tư có nhu cầu vay vốn tín dụng để đầu tư xây dựng các hạng mục công trình của dự án và tại thời điểm này thì dự án đã có đủ pháp lý thuộc “giai đoạn thực hiện dự án”, nhưng “chưa đủ điều kiện đưa vào kinh doanh”, chưa được huy động vốn của khách hàng.

Nếu dự án “đã đủ điều kiện đưa vào kinh doanh” thì chủ đầu tư “không dại gì” đi vay tín dụng ngân hàng với lãi suất cao, bởi lẽ tại thời điểm này thì chủ đầu tư đã được phép “mua bán, thuê mua bất động sản hình thành trong tương lai”, được huy động vốn từ khách hàng là nguồn vốn “rẻ nhất, hiệu quả nhất” do không bị áp lực phải trả lãi, trả vốn gốc, mà chỉ cần sớm hoàn thành dự án để bàn giao nhà cho khách hàng…

Do đó, Hiệp hội kiến nghị NHNN sửa đổi Thông tư 06 trên cơ sở hủy bỏ nhiều quy định về những nhu cầu vốn không được cho vay.

Bên cạnh đó, HoREA cũng đề nghị NHNN xem xét gia hạn thêm 12 tháng đối với quy định các tổ chức tín dụng phải tuân thủ tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn đến 01/10/2024 thay vì thời hạn 01/10/2023 (sửa Thông tư 08/2020/TT-NHNN) để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng thực hiện Nghị quyết 97/NQ-CP.

Thứ ba, HoREA đề nghị Ngân hàng Nhà nước tiếp tục xem xét theo hướng “bãi bỏ” điểm a khoản 8 Điều 4 Thông tư số 16/2021/TT-NHNN, cũng có nghĩa cho phép các tổ chức tín dụng được mua TPDN để đảo nợ. Đồng thời,  Hiệp hội đề nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét bổ sung Thông tư 03/2023/TT-NHNN để quy định cho phép các tổ chức tín dụng được xem xét từng trường hợp doanh nghiệp phát hành trái phiếu sắp đến hạn đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại Điều 4 Thông tư 02/2023/TT-NHNN, có tài sản bảo đảm, có dự án đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất được vay để tái cấu trúc các khoản nợ trái phiếu sắp đến hạn với khoản vay có thể xem xét không vượt quá 70% giá trị gói trái phiếu đã phát hành và tổ chức tín dụng được phép nhận thế chấp bằng chính trái phiếu này và có tài sản bảo đảm theo phương thức tổ chức tín dụng giải ngân trực tiếp đến các “trái chủ”.

Đối với phần 30% giá trị gói trái phiếu đã phát hành còn lại thì doanh nghiệp và các “trái chủ” thỏa thuận đàm phán theo quy định tại Nghị định 08/2023/NĐ-CP.

Hiệp hội nhận thấy, nếu thực hiện cơ chế này thì sẽ tác động tích cực ngay lập tức và cùng với cơ chế, chính sách của Nghị định 08/2023/NĐ-CP sẽ tháo gỡ được khó khăn cho các doanh nghiệp phát hành trái phiếu sắp đến hạn và hỗ trợ cho các “trái chủ” giúp cho thị trường bất động sản phục hồi trở lại theo hướng an toàn, lành mạnh, bền vững.

Thông tư 06/2023/TT-NHNN: Barie kiểm soát rủi ro hay rào chắn tiếp cận tín dụng?

Ngân hàng Nhà nước lên tiếng xung quanh một số ý kiến lo ngại Thông tư số 06/2023/TT-NHNN có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/9/2023 sẽ giống như dựng thêm “rào chắn”, khiến việc tiếp cận tín dụng khó khăn hơn so với trước đây.

Mới đây (16/7), Hiệp hội bất động sản TP.HCM (HoREA) có công văn gửi Thủ tướng Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đề nghị sửa một loạt thông tư để khơi thông tín dụng bất động sản.

Đặc biệt, với Thông tư 06/2023/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 vừa ban hành, HoREA lo ngại, Thông tư này giống như dựng thêm rào chắn, dẫn đến tình trạng một số doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực của nền kinh tế có nhu cầu vay vốn, trong đó có các doanh nghiệp bất động sản, người mua nhà, nhà đầu tư bất động sản.

Lâu nay, Thông tư 39/2016/TT-NHNN được coi là bộ “kim chi nam” hướng dẫn hoạt động cho vay của ngân hàng. Bất kỳ sự thay đổi, bổ sung nào của thông tư này đều tác động rất lớn đến các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp, người dân.

Liên quan đến lo lắng của doanh nghiệp, trong thông báo gửi tới báo chí hôm nay, Ngân hàng Nhà nước khẳng định, mục đích của Thông tư 06 là nhằm góp phần đảm bảo an toàn, hiệu quả, hạn chế rủi ro phát sinh trong hoạt động cho vay của TCTD đối với khách hàng, kiểm soát việc khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích, nâng cao chất lượng tín dụng, nhưng vẫn đảm bảo phù hợp với nhu cầu thực tế.

Vấn đề gây lo ngại nhất của Thông tư 06 là bổ sung thêm một loạt quy định về một số nhu cầu vốn TCTD không được cho vay. Trên thực tế, những nhu cầu vốn cho vay này trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước cũng đã có các văn bản cảnh báo TCTD.

Đơn cử, Thông tư 06 quy định tổ chức tín dụng không được cho vay để gửi tiền. Theo Ngân hàng Nhà nước, thực tiễn thời gian qua, qua công tác thanh tra, giám sát có phát sinh trường hợp tổ chức tín dụng đã thực hiện cho vay để chứng minh khả năng tài chính của khách hàng vay khi đi lao động, học tập ở nước ngoài dưới hình thức vay tiền để gửi tiết kiệm hoặc khách hàng thế chấp sổ tiết kiệm ngoại tệ vay tiền đồng để gửi tiết kiệm.

Liên quan đến vấn đề này, Ngân hàng Nhà nước đã có văn bản số 9565/NHNN-CSTT ngày 06/12/2019 cảnh báo các tổ chức tín dụng. Bản chất của tiền gửi tiết kiệm và giao dịch chứng minh tài chính của khách hàng phải hình thành từ chính nguồn tiền của khách hàng; không phải là tiền đi vay từ tổ chức tín dụng. Theo đó,  Thông tư 06 bổ sung quy định tổ chức tín dụng không được cho vay vốn để gửi tiền nhằm đảm bảo kiểm soát sử dụng vốn vay đúng mục đích và kiểm soát rủi ro khoản vay cũng như đảm bảo phù hợp với bản chất của tiền gửi tiết kiệm, bản chất giao dịch chứng minh tài chính.

Liên quan đến một số quy định cấm cho vay khác mà Thông tư 06 nêu ra, Ngân hàng Nhà nước cũng giải thích rõ về phạm vi áp dụng.

Thứ nhất, quy định TCTD không được cho vay để thanh toán tiền góp vốn, mua, nhận chuyển nhượng phần vốn góp của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh; góp vốn, mua, nhận chuyển nhượng cổ phần của công ty cổ phần chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán hoặc chưa đăng ký giao dịch trên hệ thống giao dịch UPCoM.

Theo lý giải của Ngân hàng Nhà nước, quy định này chỉ áp dụng đối với mục đích thanh toán tiền góp vốn, mua, nhận chuyển nhượng phần vốn góp của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh; góp vốn, mua, nhận chuyển nhượng cổ phần của công ty cổ phần chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán hoặc chưa đăng ký giao dịch trên hệ thống giao dịch UpCOM. Đối với mục đích góp vốn, mua, nhận chuyển nhượng phần vốn góp tại công ty cổ phần niêm yết thì tổ chức tín dụng thực hiện cho vay theo quy định.

Phần vốn góp tại công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh là vốn điều lệ của công ty trên báo cáo tài chính, do vậy, nếu hình thành từ vốn vay sẽ phản ánh không chính xác năng lực tài chính của công ty. 

Đồng thời, thực tiễn thời gian qua cho thấy việc tổ chức tín dụng cho vay đối với nhu cầu vốn này trong nhiều trường hợp tiềm ẩn rủi ro do. Nguyên nhân bởi là nhu cầu vốn khó kiểm soát mục đích sử dụng tiền vay do tổ chức tín dụng không kiểm soát được việc sử dụng vốn của bên nhận góp vốn, không có cơ sở để đánh giá thường xuyên đối với tình hình tài chính, tình hình hoạt động, khả năng trả nợ của bên nhận vốn góp và đây là một trong những hình thức mà khách hàng có thể sử dụng để che giấu hình thức sở hữu lẫn nhau.

Ngoài ra, nguồn trả nợ của khách hàng phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn tiền từ chủ đầu tư (hoàn trả vốn góp và lợi tức); giá trị khoản vay khá lớn, khách hàng vay có thể là các doanh nghiệp mới thành lập, không có nguồn trả nợ nào khác, hoặc nếu có nguồn trả nợ khác thì không đáng kể so với số tiền vay vốn. Trên thực tế, bên nhận vốn góp sử dụng khoản vay góp vốn của khách hàng tại tổ chức tín dụng phần lớn để kinh doanh/khai thác vào các Dự án; trong khi các dự án này chưa đảm bảo tính pháp lý, chưa đủ điều kiện triển khai theo quy định của pháp luật. Trường hợp rủi ro xảy ra, do dự án chưa đảm bảo tính pháp lý, việc xử lý tài sản đảm bảo sẽ phát sinh rất nhiều vướng mắc và khó xử lý.

Thứ hai, Thông tư 06 bổ sung quy định tổ chức tín dụng không được cho vay để thanh toán tiền góp vốn theo hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác đầu tư hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh để thực hiện dự án đầu tư không đủ điều kiện đưa vào kinh doanh theo quy định của pháp luật tại thời điểm tổ chức tín dụng quyết định cho vay.

Ngân hàng Nhà nước khẳng định, quy định này chỉ áp dụng đối với các dự án đầu tư không đủ điều kiện đưa vào kinh doanh theo quy định của pháp luật. Đối với các dự án đầu tư đủ điều kiện đưa vào kinh doanh theo quy định của pháp luật, tổ chức tín dụng tiếp tục xem xét cho khách hàng vay để thanh toán tiền góp vốn theo hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác đầu tư hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh theo quy định; đồng thời, để đảm bảo kiểm soát rủi ro, trường hợp tổ chức tín dụng cho khách hàng vay đối với nhu cầu vốn này, Thông tư 06 bổ sung quy định tổ chức tín dụng phải có biện pháp kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình tài chính, nguồn trả nợ của khách hàng, đảm bảo khả năng thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn theo thoả thuận, kiểm soát việc sử dụng vốn vay đúng mục đích.

Thực tiễn thời gian qua cho thấy việc cho vay đối với các nhu cầu vốn này để thực hiện dự án, mà dự án lại không đủ điều kiện đưa vào kinh doanh theo quy định của pháp luật tiềm ẩn rủi ro do: (i) Các khoản hợp tác kinh doanh, góp vốn có thời gian góp vốn và lợi tức góp vốn cố định, không phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị nhận góp vốn; mà nguồn trả nợ phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn tiền của chủ đầu tư, khách hàng vay vốn không có nguồn trả nợ nào khác hoặc có thì không đáng kể so với số tiền vay vốn. (ii) Nếu dự án chưa bảo đảm tính pháp lý, điều kiện để triển khai (đơn cử như tài liệu thể hiện chủ đầu tư được phép huy động vốn theo quy định của pháp luật hoặc tài liệu thể hiện chủ đầu tư được phép triển khai dự án như Giấy chứng nhận đầu tư, Biên bản bàn giao đất, Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, Giấy phép xây dựng...) thì phát sinh rủi ro khi dự án không có nguồn thu, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng và vướng mắc trong việc xử lý tài sản đảm bảo.

Thứ ba, Thông tư 06 quy định tổ chức tín dụng không được cho vay để bù đắp tài chính. Nguyên nhân là việc cho khách hàng vay để bù đắp tài chính tiềm ẩn rủi ro về việc sử dụng vốn vay do khó đánh giá sự phù hợp giữa nhu cầu vay vốn và giá trị tài chính khách hàng đã mượn, tính xác thực của các giao dịch.

Ví dụ không có hồ sơ, tài liệu đủ tin cậy chứng minh cho phương án vay vốn của khách hàng, nhiều trường hợp cho vay bù đắp nhu cầu phục vụ đời sống như để thanh toán giao dịch phát sinh từ lâu (5 năm, 10 năm trước đây) và chứng từ là giấy tờ viết tay mượn tiền giữa các cá nhân để mua bất động sản/hàng hóa thường với số tiền giá trị khá lớn... tổ chức tín dụng khó xác định nguồn tiền mà khách hàng đã ứng trước, không kiểm soát được việc khách hàng sử dụng số tiền được giải ngân cho vay...

Tuy nhiên, trên thực tế có một số nhu cầu vốn vay bù đắp là chính đáng, như trường hợp doanh nghiệp đang làm thủ tục vay vốn trung, dài hạn để thực hiện dự án kinh doanh, trong thời gian chưa được phê duyệt khoản vay trung, dài hạn, doanh nghiệp cần phải thanh toán một số chi phí phát sinh liên quan đến dự án mà các khoản chi phí này đã được đưa vào phương án sử dụng vốn vay và theo đó, doanh nghiệp đã phải ứng trước vốn của mình để thanh toán, đảm bảo tiến độ dự án. Đối với trường hợp này, sau khi khoản vay trung dài hạn được phê duyệt, tổ chức tín dụng giải ngân số tiền doanh nghiệp ứng trước vốn đã thực hiện dự án; đồng thời, tiếp tục xem xét giải ngân để thực hiện dự án đó nếu doanh nghiệp có nhu cầu.

Vì vậy, Thông tư 06 đã bổ sung cho phép tổ chức tín dụng tiếp tục thực hiện cho vay đối với trường hợp này để tạo điều kiện cho doanh nghiệp duy trì hoạt động sản xuất - kinh doanh, đảm bảo tiến độ thực hiện dự án, qua đó, tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng của doanh nghiệp.

Lợi nhuận giảm tốc, cổ phiếu nhiều ngân hàng vẫn hấp dẫn

Theo Công ty chứng khoán Vietcombank, lợi nhuận ngành ngân hàng năm nay sẽ giảm tốc, phân hóa mạnh, một số ngân hàng nhỏ thậm chí tăng trưởng âm nếu thị trường bất động sản và tình hình vĩ mô xấu đi.

Trong báo cáo vừa công bố, chuyên gia phân tích Công ty chứng khoán Vietcombank (VCBS) cho rằng, lợi nhuận trước thuế toàn ngành ngân hàng năm nay dự kiến chỉ đạt khoảng 10%, giảm mạnh so với năm ngoái. Nguyên nhân là do tín dụng năm nay tăng thấp (khoảng 12%), nợ xấu tăng và biên lãi thuần (NIM) thu hẹp.

Đáng lưu ý, lợi nhuận ngân hàng dự kiến tiếp tục phân hóa mạnh, với một số ngân hàng thuộc nhóm quy mô nhỏ sẽ tiếp tục giảm tốc, thậm chí tăng trưởng âm trong trường hợp thị trường bất động sản và tình hình vĩ mô thế giới xấu đi khiến tín dụng chậm lại và khả năng trả nợ của khách hàng khó hồi phục. 

Trong quý I, NIM toàn ngành ngân hàng đã giảm xuống 3,68% từ mức 3,81% cuối năm 2022. NIM dự kiến tiếp tục thu hẹp trong quý II khi nguồn vốn huy động giá cao vẫn chưa được hấp thụ hết, đồng thời với việc nguồn vốn giả rẻ CASA (tiền gửi thanh toán) giảm mạnh.

Trong nửa cuối năm nay, áp lực thu hẹp NIM sẽ hạ thấp, tuy nhiên mức độ cải thiện phân hóa giữa các nhóm ngân hàng.Theo các chuyên gia phân tích VCBS, nhóm ngân hàng thương mại nhà nước có NIM duy trì mức thấp do áp lực giảm lãi suất hỗ trợ với các gói vay ưu đãi quy mô lớn từ đầu 2023. Nhóm ngân hàng tư nhân có tệp khách hàng cá nhân thường xuyên dồi dào có NIM tăng nhanh nhờ tỷ lệ CASA và tín dụng bán lẻ hồi phục khi mặt bằng lãi suất giảm dần. Với nhóm ngân hàng nhỏ, NIM sẽ cải thiện rõ rệt khi các khoản tiền gửi lãi suất cao dần đáo hạn.

Mặc dù nợ xấu khó tăng đột biến do NHNN đã ban hành thông tư cho phép cơ cấu nợ, giãn hoãn nợ song nợ xấu và nợ xấu tiềm ẩn tiếp tục tăng. Cuối quý I, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của toàn hệ thống đã tăng lên 1,9% từ mức 1,6% cuối 2022, tỷ lệ nợ nhóm 2 cũng tăng lên 2,1%. Trong khi đó, hoạt động xử lý nợ xấu gặp khó khăn do thị trường bất động sản đóng băng.

Các chuyên gia VCBS kỳ vọng, nửa cuối năm 2023, việc lãi suất hạ nhiệt sẽ tạo động lực tăng cho nhu cầu tín dụng và kỳ vọng sẽ kéo tốc độ tăng trưởng tín dụng toàn ngành cải thiện mạnh mẽ so với nửa đầu năm. NIM có khả năng cải thiện nhờ lãi suất huy động giảm. Nhóm ngân hàng tư nhân nhanh chóng mở rộng được NIM, trong khi nhóm ngân hàng quốc doanh duy trì ở mức thấp.

Rủi ro nợ xấu có thể tăng trở lại trong năm 2024 nhưng sẽ có sự phân hóa. Nhóm ngân hàng chất lượng tài sản tốt sẽ ghi nhận nợ xấu và nợ tái cơ cấu kiểm soát ở mức vừa phải. Riêng nhóm ngân hàng có tỷ trọng cho vay bất động sản và TPDN cao và có tỷ lệ bao phủ nợ xấu thấp có thể sẽ phải đối mặt với rủi ro nợ xấu và áp lực trích lập tăng cao trong năm 2024.

Theo VCBS, phần lớn các ngân hàng vẫn ghi nhận kết quả kinh doanh tương đối tích cực so với khối doanh nghiệp sản xuất trong nửa đầu năm 2023, sự phân hóa được kỳ vọng sẽ xuất hiện rõ nét hơn trong nửa sau năm 2023.

Với sự phân hóa này, VCBS cho rằng, những ngân hàng duy trì được chất lượng dư nợ tín dụng tốt, bất chấp bối cảnh nền kinh tế đối mặt với nhiều khó khăn chung, sẽ là những lựa chọn đầu tư có rủi ro thấp hơn nhưng vẫn đem lại mức lợi nhuận có thể chấp nhận được trong giai đoạn nửa cuối năm 2023.

“Chúng tôi đánh giá triển vọng đầu tư cổ phiếu ngành ngân hàng đang ở mức phù hợp thị trường với định giá P/B toàn ngành hiện thấp hơn khoảng 20% so với mức trung bình 5 năm. Nhóm cổ phiếu có thể xem xét đầu tư trong dài hạn là các ngân hàng có chất lượng tài sản tốt và tốc độ tăng trưởng vượt trội so với ngành, bao gồm: ACB, BID, LPB, MBB, MSB, STB, VCB, VIB”, chuyên gia phân tích VCBS khuyến cáo.

Một loạt ngân hàng báo lãi quý II/2023

Sacombank (STB) vừa công bố kết quả kinh doanh nửa đầu năm với lợi nhuận trước thuế đạt 4.755 tỷ, tăng 63,5% so cùng kỳ, đạt 50,1% kế hoạch đại hội đồng cổ đông giao. Tổng tài sản của Sacombank đạt hơn 622 ngàn tỷ đồng, tăng hơn 5% so đầu năm, trong đó tài sản có sinh lời tăng 7,5%. Tổng huy động đạt hơn 549 ngàn tỷ đồng, tăng gần 6%; trong đó, huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư tăng hơn 10%. Lợi nhuận trước trích lập chi phí Đề án đạt gần 6.300 tỷ đồng, tạo điều kiện trích lập ròng hơn 1.500 tỷ đồng dự phòng VAMC. Các chỉ số sinh lời tiếp tục được cải thiện tích cực, ROA và ROE lần lượt đạt 1,26% và 19,03%, tăng 0,35% và 5,2% so với năm trước.  2022. Tổng huy động vốn đạt 574.600 tỷ đồng, tăng 11%.

Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (HoSE: MSB) cho hay, tại ngày 30/6/2023, tổng tài sản của Ngân hàng đạt hơn 237.800 tỷ, tăng 11,8% so với thời điểm 31/12/2022. Tổng cho vay khách hàng lũy kế 6 tháng đạt gần 136.600 tỷ đồng, tăng trưởng đạt 13,2% kể từ đầu năm 2023, cao hơn mức trung bình toàn ngành, với sự đóng góp lớn từ các phân khúc chiến lược như khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tiền gửi khách hàng lũy kế 6 tháng ghi nhận gần 126.300 tỷ đồng, tăng nhẹ 7,8% so với cuối năm 2022, trong đó tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi ký quỹ có sự tăng trưởng tốt khi tăng lần lượt 24% và 30%. Lợi nhuận hợp nhất trước thuế lũy kế 6 tháng của MSB đạt 3.548 tỷ đồng, tương đương 56% kế hoạch năm.

TPBank:  Ngân hàng Thương mại Cổ phần Tiên Phong (TPBank – mã chứng khoán: TPB) vừa công bố báo cáo kết quả kinh doanh Quý II và 6 tháng đầu năm 2023. Trong 6 tháng đầu năm, TPBank tiếp tục ghi nhận lợi nhuận trước thuế khả quan, đạt gần 3,4 nghìn tỷ đồng. Nguồn thu chủ yếu của ngân hàng vẫn đến từ nguồn thu nhập lãi thuần, nhưng tỷ trọng thu nhập ngoài lãi có sự cải thiện tích cực khi tăng lên mức 28% trên tổng thu nhập. Trong đó, thu nhập thuần từ dịch vụ tiếp tục ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ khi đạt 1,5 nghìn tỷ đồng tính đến ngày 30/6, tương đương tăng 26% so với cùng kỳ năm trước. Kết quả này đến từ việc không ngừng tăng trưởng về quy mô hoạt động và mở rộng tệp khách hàng cả về chất và lượng, thông qua nền tảng ngân hàng số vững mạnh để đa dạng hóa về dịch vụ, sản phẩm theo từng nhu cầu của khách hàng.

Nợ xấu vọt tăng, ngân hàng lo lắng xin bảo vệ “quyền đòi nợ”

Lãnh đạo VPBank cho rằng, người cho vay đang chịu nhiều rủi ro nhất và đề nghị cơ quan quản lý có những quy định về quyền đòi nợ, quyền xử lý nợ. 

Nợ xấu dự báo sẽ tăng vọt trong báo cáo tài chính quý II/2023 của hàng loạt ngân hàng. Tuy vậy, con số này cũng chưa phản ánh đúng tình hình thực tế bởi một lượng lớn nợ xấu đã được “ẩn” nhờ Thông tư 02/2023/TT-NHNN về cơ cấu nợ.

Nhiều doanh nghiệp suy giảm khả năng trả nợ

Theo NHNN, tính tới 30/6/2023, đã có trên 18.800 lượt khách hàng được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ. Tốc dư nợ gốc lãi được cơ cấu giữ nguyên nhóm nợ là gần 62.500 tỷ đồng.

Trao đổi với phóng viên cách đây không lâu, Phó thống đốc Đào Minh Tú cảnh báo, 6 tháng đầu năm, có thể nợ xấu nội bảng chưa cao nhưng nợ có nguy cơ tiềm ẩn ở một số ngân hàng đang nhen nhóm. “Điều này luôn đặt ra vấn đề cho an toàn hệ thống", Phó thống đốc nhấn mạnh.

Nguy cơ nợ xấu gia tăng đã được nhiều ngân hàng lường trước từ đầu năm nay. Ngay cả ông lớn Agribank, vốn có thành tích xử lý nợ xấu rất tốt 5 năm trước đây (giai đoạn 2016-2020 đưa nợ xấu từ 8,1% xuống còn 1,86%) hiện cũng đang nóng ruột vì nợ xấu có nguy cơ tăng trở lại.  

Ông Phạm Đức Ấn, Chủ tịch Agribank thừa nhận, trong bối cảnh kinh tế vĩ mô trong nước và quốc tế gặp rất nhiều khó khăn, bất lợi như hiện nay, các doanh nghiệp hoạt động cầm chừng, quy mô sản xuất bị thu hẹp, tồn kho tăng cao, cạn kiệt nguồn thu, khó khăn trong trả nợ ngân hàng, dẫn đến nợ xấu gia tăng mặc dầu NHNN đã có cơ chế cơ cấu nợ giữ nguyên nhóm nợ.

“Thực tế, tỷ lệ nợ xấu của Agribank thời điểm 30/6/2023 đã tăng lên đúng bằng thời điểm kết thúc cơ cấu lại giai đoạn 2016-2020 và áp lực gia tăng trong thời gian tới là rất lớn”, ông Ấn cho biết.

Phía các ngân hàng TMCP tư nhân cũng đứng trước áp lực nặng nề về nợ xấu và xử lý nợ xấu. Ông Nguyễn Đức Vinh, Tổng giám đốc VPBank kiến nghị, cần có chính sách bảo vệ nhà đầu tư, quyền và lợi ích của ngân hàng, củng cố hoạt động lành mạnh của ngân hàng.

“Theo tôi, người cho vay đang chịu nhiều rủi ro nhất, cơ quan quản lý cần có những quy định về quyền đòi nợ, quyền xử lý nợ. Ngân hàng cần phải có quyền đòi nợ, người đi vay phải có trách nhiệm trả nợ”, Tổng giám đốc VPBank kiến nghị.

Theo Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, thời gian qua, việc thu hồi nợ gặp nhiều vướng mắc, một số  khách hàng có nợ xấu bất hợp tác, khó thương lượng. Cá biệt có hiện tượng lập nhóm bùng nợ tràn lan trên mạng xã hội kêu gọi không trả nợ nhất là nhóm khách hàng vay tiêu dùng.

Trong khi đó, công tác xử lý tài sản bảo đảm rất khó khăn. Do đó, Hiệp hội đề nghị Tòa án Nhân dân tối cao chỉ đạo tòa án các cấp thống nhất hình thức xử lý tranh chấp liên qua  đến chủ  tài sản đảm bảo tạo tranh chấp giả tạo nhằm kéo dài thời gian xử lý tài sản đảm bảo của các tổ chức tín dụng. Tổng cục thi hành án dân sự đẩy nhanh thi hành án tồn đọng. Bộ Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án nghiên cứu  xem xét trả vật chứng trong các vụ án hinh sự để các ngân hàng xử lý phát mại, đấu giá kịp thời nhằm hạn chế tổn thất trong quá trình thu giữ.

Đồng thời, Hội cũng đề nghị Bộ Tài chính phối hợp bộ ngành liên quan xây dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động chứng khoán hóa các khoản nợ, ban hành hướng dẫn về định giá khoản nợ xấu thông qua Tiêu chuẩn Thẩm định giá Việt Nam theo quy định của Luật Giá, hình thành thị trường mua bán nợ…

Tin liên quan
Tin khác