Ông B (Q. Tân Bình, TP.HCM) hút hơn 1 gói thuốc lá mỗi ngày trong hơn 20 năm. Đầu tháng 9/2024, ông đi khám sức khỏe tổng quát. Do ông thuộc nhóm đối tượng nguy cơ cao nên được bác sĩ khuyên tầm soát ung thư phổi.
Bác sỹ tiến hành chụp cắt lớp vi tính lồng ngực liều thấp (LDCT) phát hiện khối u kích thước 2×3 cm ở thùy trên phổi phải với đặc điểm điển hình, bờ tua gai, khả năng ác tính cao.
Bệnh nhân được phẫu thuật cắt thùy trên phổi phải, nạo hạch trung thất để điều trị triệt căn ung thư và đánh giá giai đoạn sau mổ. Đây là kỹ thuật nội soi hiện đại trong điều trị các bệnh lý u lồng ngực như u phổi và u trung thất, đặc biệt là ung thư phổi.
Phẫu thuật nội soi cắt bỏ u phổi. |
Bác sỹ chọn phương pháp gây mê - hồi sức tiên tiến với gây mê chọn lọc xẹp một bên phổi và gây tê cơ dựng sống (ESP) giúp giảm đau hiệu quả, rút ngắn quá trình hồi phục sau mổ.
Sau hơn 2 giờ phẫu thuật, ông Bình rời phòng hồi sức, về phòng nội trú và ăn uống bình thường. Hai ngày sau mổ, ông khỏe, được xuất viện. Kết quả giải phẫu bệnh sau mổ ghi nhận u chỉ giới hạn trong thùy phổi, các diện cắt không có tế bào u, 11/11 hạch không có tế bào u di căn. Ở giai đoạn này chưa cần sử dụng các liệu pháp điều trị hỗ trợ sau phẫu thuật như xạ trị, hóa trị bổ trợ, và tiên lượng sống cũng kéo dài hơn.
BS.CKI Trần Quốc Hoài, Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM cho biết khối u của bệnh nhân còn nhỏ, chưa biểu hiện triệu chứng ho, khó thở hay đau ngực. Hình ảnh chụp CT nghi ngờ ác tính rất cao. Sau khi cân nhắc kỹ các yếu tố và nguy cơ, bác sĩ quyết định phẫu thuật nội soi với đường mổ nhỏ, loại bỏ khối u cho ông Bình.
Theo BS. Hoài, bệnh nhân có tiền sử hút thuốc lá lâu năm như ông Bình có nguy cơ mắc ung thư phổi cao hơn người không hút thuốc từ 15-30 lần. Hút thuốc càng lâu, càng nhiều thì nguy cơ ung thư càng lớn.
Khói thuốc lá khiến cơ thể phải tiếp xúc với hàng ngàn loại hóa chất trong đó có hơn 70 hóa chất gây ung thư. Các hóa chất này có khả năng làm hỏng DNA trong tế bào phổi và các tế bào khác. Lúc này, cơ thể sẽ hoạt động nhiều để sửa chữa những tổn thương do các hóa chất này gây ra, nhưng theo thời gian, cơ thể không thể tự chữa lành được nữa. Điều này có thể dẫn đến sự hình thành các tế bào ung thư.
Dấu hiệu ung thư phổi thường không rõ ràng ở giai đoạn đầu. Khi xuất hiện các triệu chứng khó thở dai dẳng, nhiễm trùng đường hô hấp tái đi tái lại, đau ngực… thì ung thư đã ở giai đoạn tiến triển, việc điều trị khó khăn, suy giảm chất lượng cuộc sống. Do đó, tầm soát ung thư phổi, phát hiện và điều trị sớm sẽ gia tăng khả năng điều trị dứt điểm căn bệnh này.
Phương pháp được áp dụng để tầm soát ung thư phổi là chụp cắt lớp vi tính lồng ngực liều thấp (LDCT) ở những bệnh nhân có nguy cơ cao. LDCT có thể phát hiện bất thường nhỏ nhất ở phổi; sử dụng bức xạ ion hóa ít hơn tới 90% so với chụp CT ngực thông thường, chỉ tương đương với 1 phim X-quang ngực thẳng, nhưng LDCT cho nhiều thông tin có giá trị chẩn đoán hơn.
Tầm soát ung thư phổi bằng phương pháp chụp cắt lớp vi tính liều thấp được khuyến nghị cho những người lớn tuổi, người đang hút thuốc lá và những đối tượng nguy cơ cao ung thư phổi (nam giới trên 55 tuổi, người mắc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD), người có tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư phổi và người đã tiếp xúc với các chất độc hại trong thời gian dài như amiăng, cadimi, niken, crom, uranium, thạch tín…).