- Công ty Nước Sài Gòn - Cần Thơ: Kiện toàn nhân sự, khởi động Nhà máy nước Sài Gòn - Mê Kông
- Bốn nhà đầu tư tham gia đấu thầu gói thầu số 5 của Cấp nước Đồng Nai
- Ba nhà thầu tham gia gói thầu xây lắp đường ống cấp nước tại tỉnh Hậu Giang
- Kiên Giang được chuyển 48,84 ha đất lúa sang thực hiện Dự án đầu tư xây dựng hệ thống cấp nước
Một dự án nước sạch ở huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum. Ảnh: Đ.N |
UBND tỉnh Kon Tum đề nghị Công ty cổ phần cấp nước Kon Tum khẩn trương lập phương án giá nước sạch gửi Sở Tài chính thẩm định trình UBND tỉnh xem xét, phê duyệt đảm bảo theo quy định tại Thông tư số 44/2021/TT-BTC, ngày 18/6/2021 của Bộ Tài chính quy định về khung giá, nguyên tắc, phương pháp xác định giá nước sinh hoạt.
Mới đây, Thanh tra tỉnh Kon Tum đã chỉ ra nhiều tồn tại liên quan đến việc tiêu thụ nước sạch và áp dụng giá nước sạch xảy ra tại Công ty cổ phần cấp nước Kon Tum. Theo đó, qua kiểm tra Phương án 188/PA-NCKT, ngày 28/9/2020 điều chỉnh giá tiêu thụ nước sạch của Công ty, thì phương án đơn vị lập, dự kiến tài sản cố định tăng trong giai đoạn 2019 - 2023 là 117.585.920.581 đồng, tài sản cố định hữu hình tăng 2.664.000.000 đồng (bao gồm chủ yếu là dự án xây dựng trạm bơm nước thô và xây dựng cụm xử lý công suất 20.000m3, mạng lưới truyền tải phân phối nước sạch).
Tuy nhiên đến thời điểm thanh tra, các dự án trên vẫn chưa đưa vào hoạt động. Theo đơn vị báo cáo, các dự án trên công ty đã triển khai thiết kế, nhập vật tư nhưng do vướng về quy hoạch và đất đai dẫn đến vẫn chưa triển khai được. Theo đơn vị xác định, trong phương án sử dụng nước thì tỷ lệ thất thoát nước năm 2021 là 20,72%, năm 2022 là 19,29 %, năm 2023 là 17,86 %. Tuy nhiên, tỷ lệ thất thoát thực tế là năm 2020 là 26%, năm 2021 là 21,9% và năm 2022 là 21,45%. Tỷ lệ thất thoát này cao hơn Phương án đơn vị lập và cao hơn mức tối đa theo quy định của Thông tư số 44/2021/TT-BTC của Bộ Tài chính.
Ngày 18/6/2021, Bộ Tài chính ban hành Thông tư 44/2021/TT BTC quy định về khung giá, nguyên tắc, phương pháp xác định giá nước sinh hoạt (có hiệu lực từ ngày 5/8/2021) thay thế Thông tư liên tịch số 75/2012/TTLT-BTC-BXD-BNNPTNT, ngày 15/5/2012 của liên Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Tuy nhiên, đến nay đơn vị chưa thực hiện rà soát, lập lại phương án theo quy định. “Trách nhiệm để xảy ra khuyết điểm, tồn tại nêu trên thuộc về Công ty cổ phần cấp nước Kon Tum”, Thanh tra tỉnh Kon Tum kết luận.
Về áp dụng giá nước sạch đối với các hộ sản xuất vật chất và kinh doanh, Thanh tra tỉnh Kon Tum nhận thấy, hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc các thành viên hộ gia đình đăng ký thành lập. Do đó, đa số hộ kinh doanh có sử dụng nước cho nhiều mục đích khác nhau (sinh hoạt hộ gia đình; sản xuất vật chất, kinh doanh dịch vụ). Tuy nhiên, không được Công ty đưa đầy đủ các mục đích sử dụng nước vào Hợp đồng, mà chỉ xác định một mục đích sử dụng nước chung cho sản xuất, kinh doanh dịch vụ.
Tại Điều 1 các Hợp đồng dịch vụ cấp nước do Công ty lập, phần “Mục đích sử dụng” của các Hợp đồng chỉ đánh dấu tại ô “Sản xuất, kinh doanh dịch vụ”, chỉ xác định mục đích sử dụng nước cho sản xuất, kinh doanh dịch vụ; không sử dụng cho mục đích sinh hoạt, với mức giá nước sạch áp dụng cho mục đích sản xuất vật chất, kinh doanh dịch vụ (16.564 đồng/m3); nhưng thực tế đa số trong số này là các hộ gia đình (có dùng nước cho mục đích sinh hoạt) có phát sinh các hoạt động kinh doanh, dịch vụ mà không sử dụng nước cho hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc có dùng nhưng không phải là mục đích sử dụng chính (ví dụ như kinh doanh buôn bán thuốc tây, buôn bán các mặt hàng thời trang, các mặt hàng gia dụng, cửa sắt, các quán cà phê…).
Như vậy, Công ty cổ phần cấp nước Kon Tum lập các Hợp đồng dịch vụ cấp nước với khách hàng, nhưng thực tế không phân biệt cụ thể cho từng mục đích sử dụng nước khác nhau, để xác định giá tiêu thụ nước sạch; mà phân biệt tất cả các đối tượng sản xuất, kinh doanh doanh dịch vụ đều phải áp dụng một mức giá cho mục đích hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động kinh doanh dịch vụ (16.564 đồng/m3) là chưa đúng theo nguyên tắc xác định giá tiêu thụ nước sạch quy định tại khoản 2, Điều 3, Thông tư liên tịch số 75/2012/TTLT-BTC-BXD-BNNPTNT, ngày 15/5/2012 của liên Bộ: Tài chính, Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Việc khách hàng sử dụng nước chỉ dùng một đồng hồ đo nước, nhưng sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau (sinh hoạt hộ gia đình; sản xuất vật chất, kinh doanh dịch vụ) đã được Sở Tài chính và các cơ quan, địa phương nhiều lần đặt vấn đề với Công ty; đồng thời, cũng đã đề nghị Công ty thực hiện điều chỉnh Hợp đồng sử dụng nước và thu tiền sử dụng nước theo từng mục đích sử dụng; hoặc có giải pháp phân loại nhóm khách hàng tương ứng với mục đích kinh doanh, để áp giá phù hợp tình hình thực tế sử dụng.
Tuy nhiên, Công ty đã không thực hiện việc thỏa thuận với khách hàng sử dụng nước cho nhiều mục đích sử dụng khác nhau, theo đề nghị của Sở Tài chính và các cơ quan, địa phương; theo quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 7, Thông tư liên tịch số 75/2012/TTLT-BTC-BXD-BNNPTNT, ngày 15/5/2012 và theo Mục IV Phương án số 188/PA-CNKT, ngày 28/9/2020 của Công ty trình UBND tỉnh và Sở Tài chính thẩm tra, để ban hành quyết định biểu giá nước sạch sinh hoạt trên địa bàn tỉnh.
Từ những căn cứ nêu trên cho thấy, việc lập Hợp đồng dịch vụ cấp nước, nhưng không được Công ty đưa đầy đủ các mục đích sử dụng nước vào Hợp đồng, mà chỉ xác định một mục đích sử dụng nước chung cho sản xuất, kinh doanh dịch vụ; lập các Hợp đồng dịch vụ cấp nước với khách hàng, nhưng thực tế không phân biệt cụ thể cho từng mục đích sử dụng nước khác nhau, để xác định giá tiêu thụ nước sạch (tất cả các đối tượng sản xuất, kinh doanh doanh dịch vụ đều phải áp dụng một mức giá cho mục đích hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động kinh doanh dịch vụ (16.564 đồng/m3)).
Mặc dù đã được Sở Tài chính và các cơ quan, địa phương nhiều lần chỉ ra và đề nghị điều chỉnh, có giải pháp để thực hiện theo quy định, nhưng Công ty vẫn không tiếp thu để thực hiện. Từ đó dẫn đến phát sinh nhiều ý kiến, kiến nghị của nhân dân trên địa bàn thành phố, do các hộ kinh doanh phải áp dụng và đã chi trả giá nước sạch dùng cho mục đích sinh hoạt theo đơn giá nước sạch áp dụng cho mục đích sản xuất vật chất, kinh doanh dịch vụ. “Trách nhiệm để xảy ra khuyết điểm, tồn tại nêu trên thuộc về Công ty cổ phần cấp nước Kon Tum”, Thanh tra tỉnh Kon Tum nêu.