Kết quả biểu quyết thông qua Luật Cư trú (sửa đổi). |
Chỉ có 5/455 vị đại biểu không tán thành, chiều 13/11 Quốc hội đã thông qua Luật Cư trú (sửa đổi) với chính sách lớn là bỏ hộ khẩu giấy. Gồm 7 chương, 38 điều, Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/ 2021.
Hộ khẩu giấy được sử dụng hết 2022
Qua hai kỳ họp của Quốc hội, tại các phiên thảo luận, Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm (Trưởng ban soạn thảo dự án luật) đều quả quyết hoàn toàn có thể bỏ hộ khẩu giấy cùng thời điểm Luật có hiệu lực vào giữa năm sau..
Nhưng đến tận phiên thảo luận cuối cùng, ý kiến vẫn rất khác nhau nêm Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã gửi phiếu thăm dò ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội. Kết quả, có 266/402 đại biểu có hồi âm đồng ý với phương án 1 là cho phép người dân được tiếp tục sử dụng Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú đã được cấp cho đến hết ngày 31/12/2022. Có 135/402 vị đại biểu Quốc hội đồng ý với phương án quy định Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú không có giá trị sử dụng trong các giao dịch, quan hệ pháp luật được xác lập mới kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành (01/7/2021).
Tiếp thu theo ý kiến của đa số đại biểu Quốc hội, khoản 3 Điều 38 của dự thảo Luật trình Quốc hội thông qua đã quy định theo hướng cho phép người dân được tiếp tục sử dụng Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú đã được cấp cho đến hết ngày 31/12/2022 để chứng minh thông tin về nơi cư trú nhằm tránh làm phát sinh thêm thủ tục hành chính, thêm phiền phức cho người dân, tạo áp lực lớn cho các cơ quan quản lý, đăng ký cư trú tại thời điểm Luật mới có hiệu lực thi hành.
Quy định này, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nhấn mạnh, không làm ảnh hưởng đến hiệu lực thi hành của Luật Cư trú và việc triển khai thực hiện các quy định của Luật ngay từ thời điểm ngày 01/7/2021. Khi các Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu về cư trú hoàn thành việc xây dựng, vận hành thông suốt và các cơ quan, tổ chức, địa phương đã thực hiện tốt việc kết nối, liên thông để bảo đảm chỉ cần sử dụng số định danh cá nhân là có thể xác định được thông tin nhân thân, thông tin về nơi cư trú của công dân thì Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú sẽ tự chấm dứt vai trò ngay cả khi chưa đến thời hạn 31/12/2022.
Biểu quyết riêng về điều này có tới 446/455 vị bấm nút tán thành.
Giữ điều kiện về diện tích nhà ở
Điểm mới khác của lần sửa đổi này là đã bỏ các quy định riêng về điều kiện đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc Trung ương như trong luật hiện hành. Bởi việc đặt ra các điều kiện riêng này sẽ làm hạn chế quyền tự do cư trú của công dân, tác động đến quyền, lợi ích hợp pháp của một bộ phận công dân đang sinh sống, làm việc tại các thành phố lớn, nhưng không đủ điều kiện đăng ký thường trú.
Luật Cư trú (sửa đổi) quy định: công dân có chỗ ở hợp pháp thuộc quyền sở hữu của mình thì được đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp đó. Theo đó, khoản 3, khoản 4, Điều 19, Luật Thủ đô quy định về điều kiện đăng ký thường trú ở Thủ đô đã được bãi bỏ.
Một vấn đề cũng còn ý kiến nhiều chiều suốt quá trình thảo luận là điều kiện đăng ký thường trú vào chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ. Thống nhất là cần quy định điều kiện, nhưng các ý kiến còn khác nhau liên quan đến việc xác định điều kiện này là diện tích nhà ở bình quân hay là thời gian tạm trú trên địa bàn. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã gửi phiếu thăm dò ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội.
Kết quả lấy phiếu cho thấy, có 235/402 vị đại biểu Quốc hội có hồi âm đồng ý với phương án 1, quy định điều kiện đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ là phải bảo đảm điều kiện về diện tích nhà ở tối thiểu do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định nhưng không thấp hơn 08m2 sàn/người. có 153/402 vị đại biểu Quốc hội đồng ý với phương án 2, quy định điều kiện đăng ký thường trú là đã đăng ký tạm trú trong cùng phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương từ 1 năm trở lên; chỉ có 19 đại biểu có ý kiến khác.
Do đó, dự thảo luật trình Quốc hội thông qua đã tiếp thu theo ý kiến của đa số đại biểu Quốc hội, thể hiện theo phương án phải bảo đảm điều kiện về diện tích nhà ở tối thiểu do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định nhưng không thấp hơn 08m2 sàn/người.
Lần sửa đổi này, điều kiện đăng ký tạm trú cũng thoáng hơn, theo hướng không quy định điều kiện riêng đối với người đăng ký tạm trú tại chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ.
1. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
2. Luật Cư trú số 81/2006/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 36/2013/QH13 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành.
3. Kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành, Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú đã được cấp vẫn được sử dụng và có giá trị như giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú theo quy định của Luật này cho đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2022.
Trường hợp thông tin trong Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú khác với thông tin trong Cơ sở dữ liệu về cư trú thì sử dụng thông tin trong Cơ sở dữ liệu về cư trú.
Khi công dân thực hiện các thủ tục đăng ký, khai báo về cư trú dẫn đến thay đổi thông tin trong Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú thì cơ quan đăng ký cư trú có trách nhiệm thu hồi Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú đã cấp, thực hiện điều chỉnh, cập nhật thông tin trong Cơ sở dữ liệu về cư trú theo quy định của Luật này và không cấp mới, cấp lại Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú.
4. Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan khác có liên quan rà soát các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành có nội dung quy định liên quan đến Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú hoặc có yêu cầu xuất trình giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với quy định của Luật này, hạn chế việc sử dụng thông tin về nơi cư trú là điều kiện để thực hiện các thủ tục hành chính.
Nguồn: Luật Cư trú (sửa đổi) trình Quốc hội thông qua).