Đầu tư
Quy mô GDP Việt Nam sớm cán mốc 1.000 tỷ USD
Mạnh Bôn - 28/12/2025 16:49
PGS-TS. Nguyễn Đức Trung, Hiệu trưởng Trường đại học Ngân hàng TP.HCM nhận định, để đạt được tốc độ tăng trưởng 2 con số trong giai đoạn tới, tổng vốn đầu toàn xã hội cần số tiền vô cùng lớn. “Vốn không thiếu, nếu đủ vốn, đầu tư hiệu quả, thì chỉ 6-7 năm nữa, quy mô nền kinh tế Việt Nam sớm đạt 1.000 tỷ USD”, ông Trung dự báo.
PGS-TS. Nguyễn Đức Trung, Hiệu trưởng Trường đại học Ngân hàng TP.HCM.

Để tăng trưởng 2 con số, tổng vốn đầu tư toàn xã hội bao nhiêu là đủ, thưa ông?

Trong vòng 15 năm trở lại đây, tổng vốn đầu tư toàn xã hội tương đương 32-34% GDP và GDP chỉ tăng trưởng trung bình khoảng 6%/năm. Năm 2024, tổng vốn đầu tư toàn xã hội tương đương 32,1% GDP, giảm 1,2 điểm phần trăm so với năm 2023 (đạt 33,3% GDP).

Năm nay - năm cuối cùng thực hiện kế hoạch kinh tế, xã hội giai đoạn 2021-2025, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo tập trung giải ngân vốn đầu tư công, hoàn thành các công trình, dự án đã có trong kế hoạch đầu tư công giai đoạn 2021-2025, đồng thời khởi công, hoàn thiện các công trình, dự án quan trọng, thiết yếu, tạo tiền đề tăng trưởng tối thiểu 10% vào 5 năm tới. Nhưng tổng vốn đầu tư toàn xã hội dự kiến cũng chỉ khoảng 33,2% GDP, cỡ 169 tỷ USD.

Để đạt tốc độ tăng trưởng 2 con số, theo kinh nghiệm thành công của các nền kinh tế đi trước như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, vốn đầu tư toàn xã hội tối thiểu phải đạt 36-37% GDP, thì số vốn đầu tư rất lớn và tăng mạnh hàng năm.

Nếu năm 2026 đạt mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội như Nghị quyết 244/2025/QH15 đặt ra, theo ông, khi nào Việt Nam gia nhập “câu lạc bộ ngàn tỷ”?

Năm nay, quy mô GDP dự kiến đạt 510 tỷ USD, tăng 35-36 tỷ USD so với năm 2024. Giả sử năm 2026 đạt tốc độ tăng trưởng 10%, quy mô GDP sẽ tăng thêm 51 tỷ USD, lên 561 tỷ USD và tiếp tục tăng trưởng 10%/năm, thì đến năm 2031-2032, Việt Nam có quy mô nền kinh tế tối thiểu 1.000 tỷ USD. Như vậy, số tiền đầu tư hàng năm vô cùng lớn và sẽ lên 360-370 tỷ USD mỗi năm khi GDP chạm ngưỡng 1.000 tỷ USD.

Câu hỏi vẫn là “vốn ở đâu”, thưa ông?

Nếu dự án đầu tư hiệu quả thì nguồn vốn không thiếu, được huy động qua thị trường chứng khoán, phát hành trái phiếu doanh nghiệp và ngân hàng nào cũng sẵn sàng cho vay. Dự án hiệu quả cao, không chỉ nguồn vốn trong nước sẵn sàng đáp ứng đủ, kịp thời, mà nguồn vốn gián tiếp nước ngoài cũng đổ vào thông qua mua cổ phiếu của doanh nghiệp niêm yết, doanh nghiệp phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng.

Thực tế, doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường chứng khoán, phát hành trái phiếu quá ít, số tiền huy động mỗi năm không bằng doanh số cho vay của một ngân hàng cổ phần nhỏ, vì vậy buộc phải dựa quá nhiều vào vốn vay ngân hàng.

Vốn đầu tư từ khu vực nhà nước cũng không thiếu?

Rất mừng là nguồn vốn này còn khá nhiều dư địa. Đến hết năm 2025, theo tính toán của Bộ Tài chính, nợ công ước khoảng 35-36% GDP; nợ chính phủ khoảng 33-34% GDP; nợ nước ngoài 31-32% GDP. Trong khi đó, giới hạn nợ công đã được Quốc hội thông qua trần nợ công không quá 60% GDP; nợ chính phủ không quá 50% GDP; và trần nợ nước ngoài không quá 50% GDP. 

Như vậy, khi cần đầu tư công, kể cả các dự án chục tỷ USD, Chính phủ hoàn toàn có thể vay nợ trong nước và cả nước ngoài để đầu tư, miễn là phải đầu tư hiệu quả. Chưa kể, ngân sách nhà nước năm nào cũng tăng thu, thu vượt dự toán và quy mô ngày càng lớn, nên có thêm nguồn để đầu tư công.

Thế còn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thì sao?

Có thể nói, Chính phủ đã và đang triển khai hiệu quả Nghị quyết 50-NQ/TW (năm 2019) về Định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Năm nay, vốn FDI thực hiện dự kiến đạt 26-27 tỷ USD, tăng khoảng 1 tỷ USD so với năm 2024 (25,35 tỷ USD).

Từ năm 2020 đến nay, có thể khái quát, hoạt động đầu tư FDI ngày càng sôi động, nhiều tập đoàn đa quốc gia, doanh nghiệp lớn với công nghệ hiện đại đầu tư vào nước ta; quy mô vốn và chất lượng dự án tăng, góp phần tạo việc làm, thu nhập cho người lao động; nâng cao trình độ, năng lực sản xuất; tăng thu ngân sách nhà nước, ổn định kinh tế vĩ mô; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng; nâng cao vị thế và uy tín Việt Nam trên trường quốc tế.

Được biết, sau khi ban hành Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, tới đây, Bộ Chính trị cũng ban hành 2 nghị quyết tương tự cho khu vực doanh nghiệp nhà nước và FDI. Riêng về thu hút FDI, theo tôi, cần phải thay đổi tư duy chiến lược.

Ông có thể làm rõ hơn nhận định này?

Để phát triển nhanh và bền vững, con người, cụ thể ở đây là nguồn nhân lực chất lượng cao, có kỹ năng, kỹ xảo, trình độ, năng lực, là yếu tố quyết định. Nhưng trong nền sản xuất 4.0, con người phải hiểu ở nghĩa rộng hơn, không chỉ là con người sinh học, mà còn là AI, Big data, IoT... với công nghệ hiện đại. Đây là lực lượng sản xuất phi sinh học làm việc 24/7 không phụ thuộc vào thu nhập, chế độ nghỉ ngơi, cơ hội phát triển nghề nghiệp, ốm đau, nghỉ lễ tết...

Công nghệ sản xuất đã thay đổi, vì vậy, cần phải thay đổi tư duy, thu hút FDI không chỉ nhằm tận dụng công nghệ, quản lý hiện đại, giải quyết việc làm, vì xu hướng sản xuất trên thế giới từ mô hình doanh nghiệp hàng vạn doanh nghiệp đang hình thành công ty không ánh sáng. Đó là những nhà máy đầu tư dây chuyền hiện đại, dây chuyền vận hành hoàn toàn tự động dựa vào robot, AI, IoT, CNC (công nghệ điều khiển tự động máy móc theo chương trình đã lập sẵn, thay cho con người), không sử dụng hoặc sử dụng rất ít lao động.

Với thuế tối thiểu toàn cầu, lợi thế về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp FDI đã bị miễn nhiễm. Việt Nam thực hiện nhiều cơ chế ưu đãi, hỗ trợ khác, đặc biệt là ưu đãi miễn giảm thuế thu nhập cá nhân cho chuyên gia, nhà khoa học và nhân lực cao làm việc tại dự án đổi mới sáng tạo, trung tâm R&D, khu vực khởi nghiệp, dự án liên quan công nghệ cao, IT, khoa học và đổi mới sáng tạo.

Tôi nghĩ, ưu đãi miễn, giảm thuế sẽ sớm lỗi thời, vì với AI, IoT, CNC dựa trên nền tảng 5G và sắp tới là 6G, thì người lao động, chuyên gia ở bất cứ đâu trên thế giới, không hiện diện tại Việt Nam, vẫn hoàn toàn điều hành, quản lý, giám sát các nhà máy không ánh đèn tại Việt Nam. Cần phải thay đổi tư duy thu hút FDI trong bối cảnh mới để thu hút tối đa nguồn lực này phục vụ mục tiêu tăng trưởng GDP 2 con số.

Tin liên quan
Tin khác