Theo công bố thông tin thị trường định kỳ được thực hiện bởi Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM, kết thúc phiên giao dịch cuối tháng 1/2024, có 41 doanh nghiệp ghi nhận giá trị vốn hoá thị trường tỷ USD (tức 24.350 tỷ đồng trở lên), giảm một doanh nghiệp so với thời điểm cuối năm 2023.
Tổng công ty Viglacera (mã chứng khoán: VGC) là doanh nghiệp duy nhất rời khỏi danh sách này bởi thị giá giảm 4,73% trong tháng 1/2024, từ 54.900 đồng còn 52.300 đồng. Tính theo mức giá cuối tháng, vốn hoá của Viglacera vào khoảng 23.448 tỷ đồng. Cổ phiếu này đang phục hồi trong những phiên đầu tháng 2 khi thị giá nhích lên 53.800 đồng, tương ứng vốn hoá 24.121 tỷ đồng.
Bảng xếp hạng vốn hoá thị trường không có nhiều sự xáo trộn ở nhóm trên khi Vietcombank (mã chứng khoán:VCB) vẫn đứng đầu với 494.635 tỷ đồng, tăng hơn 10% so với cuối năm ngoái. Xếp tiếp theo lần lượt là BIDV (mã chứng khoán: BID) với 271.911 tỷ đồng. Đây cũng là hai doanh nghiệp có vốn hoá trên 10 tỷ USD của thị trường.
Những vị trí tiếp theo trong top 5 lần lượt là Vinhomes với 180.706 tỷ đồng, PV GAS với 173.174 tỷ đồng và Vietinbank với 169.692 tỷ đồng. Ở vị trí cuối cùng trong bảng xếp hạng vốn hoá tỷ USD là Công ty cổ phần Đầu tư và kinh doanh Nhà Khang Điền với vốn hoá tính đến cuối tháng 1 đạt 24.699 tỷ đồng.
Trong số 41 doanh nghiệp vốn hoá tỷ đô trên sàn TP.HCM, có đến 17 đại diện của nhóm ngân hàng. Bên cạnh VCB, BID, CTG thì còn những cái tên được xem như cổ phiếu trụ của nhóm ngân hàng như VPB, TCB, MBB, ACB, HDB, SSB, STB, VIB... Nhóm bất động sản có 5 đại diện trong nhóm này gồm Vinhomes, Becamex, Vincom Retail, Novaland và Khang Điền.
Giá trị vốn hoá toàn thị trường tính đến cuối tháng 1 đạt hơn 4,7 triệu tỷ đồng, tăng 3.34% so với cuối năm 2023 và chiếm gần 94% tổng giá trị vốn hóa cổ phiếu niêm yết toàn thị trường và tương đương 46.06% GDP năm 2023 (GDP theo giá hiện hành). Chỉ số đại diện cho sàn TP HCM đóng cửa tại 1,164.31 điểm, tăng 3,04% so với cuối năm 2023.
Ba chỉ số ngành có sự tăng điểm nhiều nhất trong tháng đầu năm 2024 gồm chỉ số ngành tài chính tăng 6,47%; chỉ số ngành hàng tiêu dùng tăng 5,49%; chỉ số ngành dịch vụ tiện ích tăng 1,84%. Ngược lại, các chỉ số ngành giảm điểm nhiều nhất gồm: chỉ số ngành bất động sản giảm 3.25%; chỉ số ngành năng lượng giảm 2.03% và chỉ số ngành hàng tiêu dùng thiết yếu giảm 1.75%.