Điều 20 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”.
Để đảm bảo thực hiện các nguyên tắc được Hiếp pháp ghi nhận, Bộ luật hình sự 1999 đã được sử đổi bổ sung và Bộ luật hình sự mới có hiệu lực từ 1/7/2016 đã quy định những hành vi xâm phạm đến quyền sống, quyền được bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự con người là hành vi phạm tội và qui định hình phạt áp dụng đối với người có hành vi phạm tội.
Điều 2, Luật báo chí 1989 quy định: Bảo đảm quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí.
Theo đó: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình.
Báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ; không một tổ chức, cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt động”.
Điều 15, Luật báo chí 1989 quy định Quyền và nghĩa vụ của nhà báo: “Không ai được đe doạ, uy hiếp tính mạng, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nhà báo hoặc phá huỷ, thu giữ phương tiện, tài liệu, cản trở nhà báo trong hoạt động nghề nghiệp đúng pháp luật.”
Vụ việc nhà báo Đỗ Doãn Hoàng bị các đối tượng hành hung dã man ngày 23/3 là một thách thức, coi thường pháp luật của những đối tượng gây án và cũng cho thấy sự nguy hiểm trong quá trình tác nghiệp của các nhà báo chân chính.
Hành vi của các đối tượng hành hung nhà báo Đỗ Doãn Hoàng là rất côn đồ, hung hãn. Bọn chúng đã tổ chức, lập kế hoạch và có sự chuẩn bị rất kỹ trước khi ra tay hành động chặn đánh nhà báo trên đường đất nối từ ngõ 292 Kim Giang ra đường Nguyễn Xiển. Xung quanh hiện trường là một số công trình xây dựng. Các nhà dân và khu chung cư nằm cách xa hàng trăm mét.
Các đối tượng đã có dấu hiệu lên kế hoạch phục đánh nhà báo Đỗ Doãn Hoàng tại địa điểm ít người qua lại.
Có ba đối tượng đã dùng gậy, tay và chân đánh liên tiếp. Thậm chí, các đối tượng còn dùng chân đạp vào đầu. Do vẫn đội mũ bảo hiểm nên phần đầu không bị ảnh hưởng nhiều, tuy nhiên, ngón tay trỏ của bàn tay phải đã bị đánh nát, nhiều vết trên người bị sưng to, trầy xước, bầm tím…
Hành vi phạm tội của các đối tượng đã có dấu hiệu phạm Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác. Tội phạm và hình phạt được qui định tại Điều 104 Bộ luật hình sự.
Để có thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội danh này trong trường hợp tỷ lệ thương tích phải từ 11% trở lên hoặc trường hợp tỷ lệ thương tật dưới 11% nhưng thuộc các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 104.
Như vậy, việc xác định tỷ lệ thương tật của nhà báo Hoàng là rất quan trọng để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự và xác định hình phạt đối với các đối tượng phạm tội.
Nhà báo Hoàng đã bị đánh dập nát ngón tay nên có thể thuộc trường hợp “gây cố tật nhẹ” theo điểm b, khoản 1, Điều 104.
Theo hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2003 NQ-HĐTP ngày 17/04/2003 quy định về gây cố tật nhẹ cho nạn nhân là trường hợp làm mất chức năng một bộ phận cơ thể của nạn nhân. Ví dụ “Gây thương tích làm cứng các khớp liên đốt ngón tay giữa ở tư thế bất lợi có tỷ lệ thương tật từ 7% đến 9% (Điểm c mục 5 phần IV, Chương I Bản quy định tiêu chuẩn thương tật ban hành kèm thông tư Liên tịch Bộ y tế - Lao động - thương binh và xã hội số 12-TT/LB ngày 26/07/1995).
Trong vụ việc này, nếu kết quả giám định của cơ quan chuyên môn xác đinh tỷ lệ thương tật của Nhà báo Nguyễn Doãn Hoàng dưới 11% thì các đối tượng vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 104 BLHS với tình tiết “có tính chất cô đồ”.
Việc các đối tượng hành hung dã man nhà báo thì chúng ta cũng không loại trừ khả năng chúng đã được thuê đánh trả thù nhà báo.
Nếu cơ quan điều tra có căn cứ chứng minh thì các đối tượng này có thể truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm h, Khoản 1, Điều 104 BLHS: “Thuê người gây thương tích hoặc gây thương tích thuê” nếu tỷ lệ thương tật là dưới 11%, trong trường hợp tỷ lệ thương tật trên 11% thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 104 BLHS.