Đầu tư Phát triển bền vững
Xây dựng tương lai bền vững cho cộng đồng ven biển trước biến đổi khí hậu
D.Ngân - 18/12/2024 18:07
Biến đổi khí hậu đang ngày càng trở thành một thách thức nghiêm trọng đối với các cộng đồng ven biển trên toàn thế giới, đặc biệt là ở Việt Nam.

Với hơn 3.000 km bờ biển, Việt Nam là một trong những quốc gia chịu tác động nặng nề nhất từ hiện tượng này.

Mực nước biển dâng cao, bão lũ gia tăng, xói mòn đất đai và ngập úng liên tục xảy ra, gây ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống của hàng triệu người dân. Để xây dựng một tương lai bền vững cho cộng đồng ven biển, việc tìm kiếm và triển khai các giải pháp tích cực, khả thi là điều cấp thiết.

Để bảo vệ cộng đồng ven biển và nâng cao khả năng chống chịu với các tác động của biến đổi khí hậu, một số giải pháp tích cực và khả thi đã được triển khai tại Việt Nam.

Các cộng đồng ven biển Việt Nam chủ yếu sinh sống nhờ nghề nông, đánh bắt thủy sản và phát triển du lịch. Tuy nhiên, họ đang phải đối mặt với những tác động ngày càng nghiêm trọng từ biến đổi khí hậu.

Tình trạng mưa bão ngày càng khốc liệt, triều cường dâng cao, xói mòn đất đai và ngập úng không chỉ đe dọa trực tiếp đến cuộc sống của người dân mà còn làm giảm khả năng canh tác và gây hủy hoại các nguồn tài nguyên thiên nhiên như thủy sản, đất đai và rừng ngập mặn.

Theo các nghiên cứu, nếu mực nước biển tiếp tục dâng cao do hiện tượng tan băng toàn cầu, nhiều khu vực ven biển có thể bị mất hoàn toàn. Điều này đe dọa không chỉ sinh kế mà còn sự tồn tại của các cộng đồng này.

Cục Quản lý Đê điều và Phòng chống Thiên tai, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, phối hợp với Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Việt Nam vừa tổ chức Hội nghị tổng kết Dự án “Tăng cường khả năng chống chịu với những tác động của Biến đổi khí hậu cho các cộng đồng dễ bị tổn thương ven biển Việt Nam”.

Dự án, được triển khai từ năm 2017 đến 2024 với tổng ngân sách 42 triệu USD, do Quỹ Khí hậu Xanh (GCF) tài trợ cùng nguồn vốn đối ứng của Việt Nam, đã đạt được những kết quả tích cực trong việc nâng cao khả năng chống chịu của các cộng đồng ven biển trước tác động của biến đổi khí hậu.

Dự án được triển khai tại 7 tỉnh ven biển dễ bị tổn thương, bao gồm Nam Định, Thanh Hóa, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Cà Mau, với mục tiêu chính là bảo vệ và hỗ trợ các cộng đồng dễ bị tổn thương thông qua các giải pháp tích hợp như xây dựng nhà an toàn, phục hồi rừng ngập mặn và tăng cường hệ thống thông tin cảnh báo rủi ro thiên tai.

Sau hơn 7 năm triển khai, dự án đã đạt được kết quả vượt kỳ vọng. Một trong những thành tựu quan trọng là việc xây dựng 4.966 ngôi nhà an toàn, mang lại nơi ở vững chắc cho hơn 25.000 người dân sống ở những khu vực thường xuyên chịu ảnh hưởng của bão lũ.

Những ngôi nhà này không chỉ giúp bảo vệ tính mạng và tài sản của người dân mà còn trở thành mô hình tích hợp vào Chương trình Mục tiêu Quốc gia Giảm nghèo bền vững.

Dự án cũng đã tái sinh được 4.028 ha rừng ngập mặn, giúp bảo vệ cộng đồng ven biển khỏi những tác động của triều cường và bão biển.

Ngoài ra, các rừng ngập mặn này còn đóng vai trò quan trọng trong việc hấp thụ hơn 1,1 triệu tấn CO2, góp phần vào cam kết của Việt Nam trong việc giảm phát thải khí nhà kính. Bên cạnh đó, dự án cũng hỗ trợ phát triển các mô hình sinh kế bền vững như nuôi ong lấy mật tại Thanh Hóa, giúp người dân vừa tăng thu nhập vừa tham gia vào việc bảo vệ môi trường.

Trong lĩnh vực quản lý rủi ro thiên tai, dự án đã triển khai hệ thống cảnh báo sớm tại 24 xã có nguy cơ cao và tổ chức đào tạo cho hơn 62.000 cán bộ và người dân, trong đó gần 50% là phụ nữ.

Chương trình này đã giúp nâng cao năng lực và nhận thức của cộng đồng trong việc ứng phó với thiên tai, từ đó giảm thiểu thiệt hại trong các tình huống khẩn cấp.

Phát biểu tại hội nghị, ông Nguyễn Văn Tiến, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Đê điều và Phòng, chống thiên tai, Giám đốc Dự án nhấn mạnh, Dự án là minh chứng rõ ràng cho sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên và vượt qua nhiều khó khăn để đạt được những kết quả đáng khích lệ.

Tuy nhiên, thách thức đặt ra là làm thế nào để những khu vực dễ bị tổn thương khác của Việt Nam cũng có được khả năng chống chịu tương tự. Chúng tôi hy vọng UNDP và các tổ chức quốc tế sẽ tiếp tục phối hợp để nhân rộng sáng kiến này trên toàn quốc, mang lại sự an toàn và bền vững cho người dân Việt Nam trước những thiên tai ngày càng khắc nghiệt.

Bà Ramla Khalidi, Trưởng đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam chia sẻ, Dự án này cho thấy khả năng chống chịu không chỉ là một mục tiêu mà còn có thể đạt được thông qua sự hợp tác, đổi mới và cam kết không ngừng nghỉ của các bên liên quan.

UNDP cam kết tiếp tục đồng hành cùng Việt Nam để xây dựng các cộng đồng bền vững, đảm bảo không ai bị bỏ lại phía sau trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu.

Để bảo vệ cộng đồng ven biển và nâng cao khả năng chống chịu với các tác động của biến đổi khí hậu, một số giải pháp tích cực và khả thi đã được triển khai tại Việt Nam, bao gồm xây dựng nhà an toàn và cơ sở hạ tầng chống chịu bão lũ.

Việc hỗ trợ các gia đình xây dựng nhà chống bão không chỉ bảo vệ tính mạng và tài sản của người dân mà còn giúp họ duy trì sinh kế trong mùa bão. Nhiều dự án đã thành công trong việc xây dựng hàng nghìn ngôi nhà an toàn cho cộng đồng ven biển, tạo ra một môi trường sống ổn định trong những mùa thiên tai.

Rừng ngập mặn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ các khu vực ven biển khỏi xói mòn và triều cường. Ngoài việc bảo vệ cộng đồng, rừng ngập mặn còn góp phần hấp thụ khí CO2, giúp giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu.

Các chương trình phục hồi và bảo vệ rừng ngập mặn đã mang lại nhiều lợi ích lâu dài cho cộng đồng, đồng thời tạo cơ hội sinh kế bền vững qua các hoạt động như khai thác thủy sản, nuôi trồng thủy hải sản và phát triển du lịch sinh thái.

Việc triển khai hệ thống cảnh báo sớm về thiên tai giúp cộng đồng ven biển chủ động ứng phó với bão lũ. Cùng với đó, việc tuyên truyền và đào tạo người dân về các biện pháp phòng ngừa và ứng phó với thiên tai là rất quan trọng, góp phần giảm thiểu thiệt hại về người và tài sản trong các tình huống khẩn cấp.

Để giảm thiểu sự thay đổi sinh kế do biến đổi khí hậu, các mô hình sinh kế bền vững như nuôi ong lấy mật, canh tác nông nghiệp sạch, trồng cây dược liệu, hay phát triển du lịch sinh thái đã được triển khai. Những mô hình này không chỉ giúp cải thiện đời sống người dân mà còn góp phần bảo vệ môi trường tự nhiên, tạo nền tảng cho một tương lai bền vững.

Việt Nam không thể đối mặt với biến đổi khí hậu một mình. Hợp tác với các tổ chức quốc tế như Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) và Quỹ Khí hậu Xanh (GCF) là rất cần thiết để triển khai các dự án hỗ trợ cộng đồng ven biển.

Những dự án hợp tác này không chỉ mang lại nguồn lực tài chính mà còn chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu, giúp Việt Nam xây dựng các cộng đồng mạnh mẽ và bền vững.

Biến đổi khí hậu sẽ còn tiếp tục là một thử thách lớn đối với cộng đồng ven biển, nhưng với sự chuẩn bị kỹ lưỡng, các giải pháp hiệu quả và sự hợp tác mạnh mẽ giữa các bên, tương lai bền vững cho các cộng đồng này là hoàn toàn khả thi.

Sáng kiến như xây dựng nhà an toàn, bảo vệ môi trường và phát triển sinh kế bền vững sẽ giúp người dân ven biển không chỉ ứng phó với các tác động tiêu cực mà còn phát triển ổn định và thịnh vượng.

Xây dựng một cộng đồng ven biển mạnh mẽ, có khả năng chống chịu với các tác động của biến đổi khí hậu là một nhiệm vụ quan trọng trong công cuộc phát triển bền vững của Việt Nam.

Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là sự đồng lòng, quyết tâm và sự hợp tác chặt chẽ từ các cấp chính quyền, cộng đồng và các tổ chức quốc tế để cùng nhau tạo dựng một tương lai an toàn, ổn định cho người dân ven biển.

Tin liên quan
Tin khác