Xuất khẩu nông sản Việt Nam đã có có thành tích ấn tượng năm 2018 |
Kỷ lục mới được thiết lập
Bất chấp áp lực cạnh tranh ngày càng khốc liệt của thị trường, sự gia tăng bảo hộ nông sản của nhiều quốc gia, năm 2018, xuất khẩu nông sản nước ta vẫn đạt kỷ lục. Kim ngạch xuất khẩu nông sản 11 tháng đầu năm 2018 đạt 36,3 tỷ USD, tăng 9,1% so với cùng kỳ năm 2017 và ước cả năm sẽ vượt mức kỷ lục 40 tỷ USD.
Đây là con số kỷ lục của ngành nông nghiệp Việt Nam, khẳng định vị thế cường quốc về xuất khẩu nông sản trên thế giới (đứng thứ 15 và đã xuất sang thị trường hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới).
Điểm nổi bật của xuất khẩu nông sản năm 2018 là thị phần xuất khẩu đều duy trì, củng cố và mở rộng, 5 thị trường XK các mặt hàng nông lâm thủy sản chính của Việt Nam là Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, ASEAN và Hàn Quốc chiếm thị phần lần lượt là 22,9% (giá trị tăng 3,6% so với năm 2017), 17,9% (tăng 9,4%), 19,1% (tăng 7,1%); 10,64% (tăng 11,0%) và 6,9% (tăng 29,4%). Các thị trường mới nổi, thị trường ngách (Trung Đông, châu Phi, Đông Âu) đều được lực chọn phát triển bài bản, có tính bổ trợ cho các thị trường trọng điểm.
Bên cạnh đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng chủ lực đều tăng. Trong số các mặt hàng nông sản chủ lực xuất khẩu của Việt Nam, có một số mặt hàng phải chịu áp lực giảm giá mạnh trong năm 2018, tuy nhiên cũng có những mặt hàng có sự tăng giá trên thị trường thế giới, điển hình là gạo, rau quả, cá tra, đồ gỗ và lâm sản. Cụ thể: đối với mặt hàng gạo, khối lượng gạo XK 11 tháng đầu năm 2018 ước đạt 5,7 triệu tấn và 2,9 tỷ USD, tăng 5,6% về khối lượng và tăng 17,7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017. Tiếp đó là rau quả với giá trị XK 11 tháng năm 2018 ước đạt 3,5 tỷ USD, tăng 11,6% so với cùng kỳ năm 2017, cá tra đạt trên 2 tỷ USD tăng 27,4%.
Tăng trưởng xuất khẩu không đạt hai con số
Mặc dù đạt kỷ lục, song năm nay, xuất khẩu không thể tăng trưởng hai con số. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này.
Thứ nhất, thị trường nông sản thế giới năm 2018 ghi nhận sự sụt giảm mạnh về giá cả các mặt hàng cây công nghiệp trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các nước xuất khẩu khiến cho nguồn cung tăng nhanh trong khi nhu cầu thế giới giảm hoặc tăng trưởng chậm.
Thứ hai, các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam ngày càng đặt ra các tiêu chuẩn kỹ thuật khắt khe đối với nông sản nhập khẩu. Đơn cử, thị trường Trung Quốc không chỉ nâng cao tiêu chuẩn về chất lượng nông sản nhập khẩu, mà còn tăng cường quản lí và siết chặt thương mại biên giới.
Thị trường EU vẫn giữ cảnh báo thẻ vàng đối với thủy sản khai thác nhập khẩu từ Việt Nam, đồng thời dự thảo các quy định mới về các chất sử dụng trên sản phẩm giống cây trồng.
Thị trường Hoa Kỳ tiếp tục duy trì và gia tăng các biện pháp bảo hộ thông qua áp thuế chống bán phá giá đối với các mặt hàng thủy sản Việt Nam, tiếp tục chương trình Thanh tra đối với cá da trơn theo Đạo luật Nông nghiệp (Farm Bill), đang triển khai mạnh mẽ việc áp dụng Đạo luật Lacey Act đối với nhóm hàng gỗ và sản phẩm gỗ.
Thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc cũng thường xuyên rà soát, điều chỉnh các quy định về an toàn thực phẩm và gia tăng tần suất kiểm tra hàng nông thủy sản nhập khẩu, gây bất lợi đến tiến độ xuất khẩu của Việt Nam vào các thị trường này.
Mặc dù khó khăn chồng chất, nhưng với những giải pháp phù hợp, xuất khẩu nông sản Việt Nam trong năm 2018 mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, song vẫn duy trì được đà tăng trưởng mạnh và đạt được mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu mà Quốc hội và Chính phủ đã đặt ra.
Xuất khẩu nông sản năm 2019 đặt mục tiêu 43 tỷ USD
Bộ NN&PTNT cho biết, năm 2019, ngành nông nghiệp phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP ngành đạt 3,0%, kim ngạch xuất khẩu khoảng 43 tỷ USD.
Để thực hiện được mục tiêu này, công tác phát triển thị trường, tháo gỡ rào cản, tạo thuận lợi cho tiêu thụ nông sản là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
Được biết, giải pháp mà Bộ NN&PTNT đưa ra là tích cực đàm phán mở cửa thị trường xuất khẩu, giữ ổn định các thị trường truyền thống, tìm kiếm và mở rộng các thị trường tiềm năng; hạn chế thấp nhất sự phụ thuộc vào một số thị trường nhất định. Triển khai tích cực, khai thác hiệu quả cơ hội của các Hiệp định tự do thương mại đem lại, tăng cường các hoạt động phát triển thị trường.
Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng thu thập, phân tích thông tin, dự báo thị trường, đặc biệt là những thị trường trọng điểm (Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc...), kịp thời cảnh báo các quy định về rào cản, vấn đề phát sinh có thể gặp đối với hàng xuất khẩu; tổ chức thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm NLTS tại thị trường nước ngoài…