Sau Cách mạng Tháng Tám, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa ra đời đã phải đối mặt với những khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua được. Đó là nạn đói, nạn dốt và nạn ngoại xâm, trong đó nạn đói có nguy cơ tiêu diệt cả dân tộc.
Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên 6 vấn đề cấp bách nhất mà Chính phủ cần giải quyết ngay, trong đó vấn đề số một là cứu đói. Bác nói: “Nhân dân ta đang đói. Những người thoát chết đói, nay cũng bị đói. Chúng ta phải làm thế nào cho họ sống”.
Bác đã đề ra hai giải pháp chống giặc đói. Thứ nhất là nhường cơm sẻ áo. Ngay từ giữa tháng 9/1945, Chính phủ đã tổ chức lễ phát động phong trào cứu đói tại Nhà hát Lớn. Chính phủ còn phái một đoàn công tác vào Nam điều tra và cấp tốc tổ chức việc vận chuyển gạo ra Bắc. Chính phủ cũng hô hào các hội buôn và tư nhân tham gia công việc vận chuyển này.
Song giải pháp quan trọng được Bác và Chính phủ đưa ra là giải quyết vấn đề từ gốc: toàn dân phải tích cực tăng gia sản xuất. “Thực túc thì binh cường. Cấy nhiều thì khỏi đói. Chúng ta thực hiện tấc đất tấc vàng thì chúng ta quyết thắng lợi trong hai việc đó. Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do độc lập”, Bác nêu trên Báo Cứu quốc.
Để tăng gia sản xuất, điều cấp bách trước mắt là phải hàn khẩu các quãng đê bị vỡ, đắp thêm một số đê mới. Việc này không thể chỉ dùng nhân lực, mà còn cần có những chuyên gia. Vì vậy, Nhà nước quyết định cho đấu thầu việc đắp đê, chủ thầu phải là những chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực này.
Lúc đó có nhiều ý kiến rằng, không nên dùng thầu khoán đắp đê, vì thầu khoán là bóc lột nhân công. Theo hồi ký của cụ Nguyễn Xiển, lúc đó là Chủ tịch Ủy ban Hành chính Bắc Bộ, là người trực tiếp điều hành việc đắp đê, thì trong một chuyến đi thị sát đắp đê, Bác Hồ đã giải đáp vấn đề này. Bác nói: “Thầu khoán đắp đê lúc này là yêu nước”. Điều đó cho thấy tư tưởng của Bác rất thoáng, không bị chi phối bởi những định kiến, giáo điều, trong giai đoạn nào thì áp dụng chính sách ấy cho phù hợp, mọi việc làm đều vì cách mạng, vì nhân dân.
Với sự quyết liệt của Chính phủ, đến đầu năm 1946, công tác đê điều đã hoàn thành. Kết quả là, sản lượng vụ màu năm 1946 đã tăng gấp 4 lần so với thời kỳ Pháp thuộc. Chỉ từ tháng 11/1945 đến 5/1946, chúng ta đã thu hoạch 614.000 tấn hoa màu, bù đắp được số thiếu hụt của vụ mùa năm 1945. Dân đã không bị đói, giá thóc gạo không tăng mà giảm.