Dữ liệu là tài sản kinh tế đặc biệt
Theo Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Cương, nhân loại đã trải qua nhiều hình thái kinh tế, mỗi hình thái đều gắn liền với những tư liệu sản xuất đặc trưng. Ở thế kỷ XIX là thời đại của than đá và thép, thế kỷ XX là thời đại của dầu mỏ và điện năng, thế kỷ XXI hiện nay là thời đại của dữ liệu và trí tuệ nhân tạo. Tuy nhiên, khác với dầu mỏ, than đá, sắt thép, dữ liệu không bị cạn kiệt mà có thể được làm giàu thêm, vừa là tư liệu sản xuất chính nhưng cũng đồng thời tạo ra thặng dư dữ liệu.
Nếu hình thái kinh tế số gắn với công nghệ thông tin, máy tính, vi mạch, điện tử, tự động hóa, Internet, thì hình thái kinh tế dữ liệu sẽ gắn liền với dữ liệu, trí tuệ nhân tạo. Nói cách khác, cuộc cách mạng dữ liệu đã và đang mang lại một hình thái mới - kinh tế dữ liệu, trong đó dữ liệu trở thành nguồn lực chiến lược để thúc đẩy hoạt động kinh tế xã hội, đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững. Trong kinh tế dữ liệu, dữ liệu là nguồn lực đầu vào, là tư liệu sản xuất chính để tạo ra giá trị mới.
"Dữ liệu là tài sản kinh tế đặc biệt, nó được trao đổi, định giá và thương mại hóa. Dữ liệu là nền tảng cho trí tuệ, dự báo, ra quyết định và có thể thay đổi hành vi và quản trị xã hội. Tại sao phải xác định kinh tế dữ liệu là đột phá chiến lược?", ông Cương đặt câu hỏi.
Thứ nhất, dữ liệu là động lực tăng trưởng và năng lực cạnh tranh quốc gia trong thời đại mới.
Thứ hai, dữ liệu là tư liệu sản xuất cho kỷ nguyên mới, đặc biệt là các công nghệ lõi như AI; không có dữ liệu thì không có AI.
Thứ ba, dữ liệu có yếu tố địa chính trị, liên quan trực tiếp đến chủ quyền, an ninh và vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu. Hiện nay khái niệm chủ quyền an ninh mạng cũng đã đan xen với chủ quyền về an ninh dữ liệu.
| Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Cương, Giám đốc Trung tâm Dữ liệu Quốc gia trình bày bài tham luận với chủ đề "Từ dữ liệu quốc gia về dân cư tới phát triển kinh tế dữ liệu" - Ảnh: VGP. |
Thứ tư, dữ liệu có tiềm năng không thể lường trước được, có thể giúp tăng tốc hoặc bỏ qua các giai đoạn phát triển truyền thống.
Thứ năm, đây là cơ hội tốt nhất của nước ta để nâng cao vị thế quốc gia.
Nhận thức rõ được điều này có nghĩa là chúng ta đang bước vào một cuộc cách mạng nhận thức mới, đó là tìm ra một tư liệu sản xuất mới, phương thức sản xuất mới kết hợp với lực lượng sản xuất mới tác động đến quan hệ sản xuất để bước vào kỷ nguyên mới. Trong bối cảnh đó, với tầm nhìn lịch sử, Đảng và Nhà nước đã thúc đẩy cuộc cách mạng dữ liệu triển khai trên một bối cảnh rộng lớn, từ xây dựng hạ tầng dữ liệu tin cậy tới tạo lập dữ liệu tin cậy quốc gia, từ tự chủ làm chủ công nghệ lõi tới nâng cao nhận thức toàn dân và xây dựng nguồn lực chuyên gia có trình độ cao. Điều đó có nghĩa là chúng ta đang mong muốn và cố gắng chuyển hóa rất nhanh một chu trình phát triển mà thế giới đã vượt qua để bắt kịp và tiến tới làm chủ một hình thái kinh tế mới mà thế giới đang hướng tới.
Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia đang được tạo lập và phát huy vai trò to lớn, trong đó dữ liệu quốc gia về dân cư của Bộ Công an đã xây dựng không đơn thuần chỉ là công cụ quản lý hành chính mà còn đóng vai trò rất quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh quốc gia trong kỷ nguyên số, thể hiện ở ba vai trò chính:
Thứ nhất, nó tạo một nền tảng cho phổ cập dịch vụ số trên phạm vi toàn quốc khi mỗi công dân xác lập một danh tính số duy nhất, được định danh và xác thực tin cậy. Nhà nước, Chính phủ có điều kiện để cung cấp các dịch vụ trong môi trường số một cách thống nhất, liên thông và an toàn.
Trên cơ sở đó, phương thức phục vụ được từng bước tái cấu trúc theo hướng cắt giảm các yêu cầu thành phần hồ sơ người dân phải kê khai, xuất trình nhiều lần, tăng cường khai thác tái sử dụng dữ liệu sẵn có từ các bộ ngành. Và việc phổ cập dịch vụ số trên nền tảng dữ liệu dân cư cũng sẽ góp phần xóa bỏ rào cản về không gian địa lý và tạo điều kiện để người dân vùng sâu, vùng xa tiếp cận dịch vụ công tới mức độ thuận lợi nhất, tương đương với khu vực đô thị, qua đó góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền.
Thứ hai, cơ sở dữ liệu dân cư đã tạo nền tảng quan trọng cho sự phát triển của kinh tế số. Dữ liệu dân cư chính xác, được chuẩn hóa và cập nhật thường xuyên là điều kiện để các mô hình kinh doanh trên môi trường số vận hành an toàn, hiệu quả và có khả năng mở rộng. Các lĩnh vực như thương mại điện tử, tài chính số, y tế số, giáo dục số cần dựa trên hệ thống định danh và xác thực điện tử để xác định người dùng, góp phần phòng ngừa gian lận, củng cố niềm tin trong giao dịch. Hơn nữa, khi dữ liệu được khai thác, phân tích bằng công nghệ AI và Big Data, sẽ tạo ra giá trị kinh tế gấp nhiều lần giá trị ban đầu. Đây chính là "dầu mỏ" của thế kỷ XXI, là nguồn tài nguyên vô tận cho đổi mới sáng tạo, ra đời hàng nghìn sản phẩm dịch vụ mới, tạo việc làm và đóng góp vào tăng trưởng GDP.
Thứ ba, cơ sở dữ liệu dân cư đã góp phần phát triển và xây dựng xã hội số văn minh, tiến bộ và bền vững. Dữ liệu chính xác sẽ giúp Nhà nước quản trị dựa trên bằng chứng, từ đó hoạch định các chính sách khoa học, phân bổ nguồn lực hợp lý, phục vụ người dân tốt hơn. Đồng thời, dữ liệu còn là công cụ để trao quyền giúp công dân chủ động kiểm soát thông tin cá nhân, tham gia giám sát công quyền để góp phần xây dựng xã hội dân chủ minh bạch. Khi dữ liệu sống và chảy thông suốt thì xã hội là một hệ sinh thái hoàn chỉnh, nơi mọi hoạt động kinh tế, xã hội, chính trị đều được số hóa, tối ưu và kết nối.
Ba điểm nghẽn quan trọng
Trong thời gian qua, Đề án 06 đánh dấu bước chuyển mình lịch sử của Việt Nam trong cuộc chuyển đổi số. Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã có 107 triệu dữ liệu công dân, kết nối với 15 bộ ngành và 34 địa phương, tiếp nhận 2,1 tỷ lượt yêu cầu xác thực. Ứng dụng VNeID có 67 triệu tài khoản định danh điện tử, tích hợp 50 tiện ích. Cổng dịch vụ công quốc gia tích hợp 4.700 thủ tục, tiếp nhận 11,5 triệu hồ sơ trực tuyến năm 2025 và tiết kiệm hơn 4.000 tỷ đồng chi phí xã hội. VNeID chi trả 33.000 tỷ tiền an sinh xã hội cho 675.000 người.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào thực chất, chúng ta mới ở giai đoạn xây nền móng bước đầu của nền kinh tế dữ liệu. Mới chỉ có cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư phát huy vai trò cốt lõi như vậy. Nếu chúng ta hình thành và khai thác được tiềm năng của cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia với 4 trụ cột dữ liệu chính là con người, vật phẩm, địa điểm và hoạt động thì sẽ phát huy vai trò hơn nữa. Trước thực trạng trên, để tận dụng mục tiêu tăng trưởng GDP hai con số giai đoạn 2026-2030, chúng ta cần phải giải quyết ba điểm nghẽn quan trọng.
Điểm nghẽn thứ nhất là nghịch lý giữa có dữ liệu nhưng thiếu dữ liệu sống động. Chúng ta mới có 12 cơ sở dữ liệu trọng điểm theo Quyết định 02/QĐ-TTg ngày 12/1/2021, có 8 cơ sở dữ liệu chưa có nền tảng cơ sở dữ liệu chung hoặc mức độ hoàn thiện rất thấp. Với 105 cơ sở dữ liệu được giao tại Quyết định 71/QĐ-TTg của Chính phủ, mặc dù các bộ ngành đã cam kết sẽ hoàn thành trong năm 2025 tại hai phiên họp liên ngành, nhưng thực tế khảo sát cho thấy có 38/105 cơ sở dữ liệu Bộ Công an đánh giá có nguy cơ cao không hoàn thành trong năm 2025.
Điểm nghẽn thứ hai là mâu thuẫn giữa có nền tảng nhưng thiếu hệ sinh thái. VNeID có 67 triệu tài khoản nhưng chưa thực sự trở thành siêu nền tảng, người dân vẫn có thể sử dụng nhiều ứng dụng khác nhau cho từng dịch vụ và chưa có trải nghiệm liền mạch. Chưa có cơ chế đột phá về hoạt động sáng tạo khai thác cho dữ liệu từ Trung tâm Dữ liệu Quốc gia để hỗ trợ thúc đẩy doanh nghiệp có thể khai thác dữ liệu một cách hợp pháp an toàn để phát triển sản phẩm đổi mới, nhất là hoạt động khai thác dữ liệu công tư kết hợp. Chương trình vườn ươm tạo dữ liệu quốc gia và một nền tảng công nghiệp phát triển kinh tế dữ liệu khi đã có hạ tầng vẫn còn sơ khai.
Điểm nghẽn thứ ba là chúng ta chưa xác định được mô hình kinh tế dữ liệu của quốc gia. Thế giới hiện nay có ba mô hình chính: Thị trường tự do của Mỹ (doanh nghiệp và hệ sinh thái dữ liệu giữ vai trò chủ đạo, quy mô toàn cầu, đổi mới và thương mại hóa AI nhanh chóng); mô hình Nhà nước điều phối của Trung Quốc; mô hình lợi ích của người dân của EU. Trong khi đó, chúng ta mới ở giai đoạn đầu của sự phát triển và mô hình kinh tế dữ liệu cho riêng mình đang ở bước đầu.
Bộ Công an đề xuất 5 đột phá chiến lược
Để vượt qua ba điểm nghẽn, từ đó tạo bước nhảy vọt, Bộ Công an đề xuất 5 đột phá chiến lược để gắn chặt chẽ với mục tiêu phát triển kinh tế số và xã hội số.
Đột phá thứ nhất là xây dựng Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế dữ liệu. Nước ta có thế mạnh về lực lượng lao động trẻ, tiếp cận tốc độ, tiếp cận số rất nhanh, nguồn tài nguyên dữ liệu đang được tạo lập có quy mô quốc gia, hạ tầng dữ liệu tin cậy quốc gia hiện đại đang được triển khai có hiệu quả. Đảng và Nhà nước đã ưu tiên các chính sách và chiến lược dữ liệu quốc gia. Đây là điều kiện tạo nên cơ hội phát triển đột phá để tăng tốc, bỏ qua giai đoạn phát triển truyền thống. Quan điểm lựa chọn chiến lược kinh tế dữ liệu nên được cân bằng giữa Nhà nước, thị trường và quyền công dân, tăng thu hút FDI và hình thành các doanh nghiệp nội địa thế hệ mới dựa trên dữ liệu từ đầu, xác định vị thế bản sắc giá trị riêng giữa các hệ sinh thái dữ liệu của quốc gia trên thế giới.
Đột phá thứ hai là xây dựng hệ sinh thái dữ liệu mở để phục vụ doanh nghiệp và đổi mới sáng tạo. Bộ Công an đang tham mưu xây dựng nghị định quy định về cơ chế đột phá phát triển cho hoạt động sáng tạo khai thác dữ liệu từ vườn ươm sáng tạo, khai thác dữ liệu thuộc Trung tâm Dữ liệu Quốc gia. Định hướng phát triển trung tâm là vườn ươm cung cấp hỗ trợ toàn diện cho các doanh nghiệp từ cơ sở vật chất, kết nối vốn đầu tư, tư vấn chuyên môn để tạo điều kiện khởi nghiệp và thương mại hóa sản phẩm. Mô hình này đã thành công ở Singapore, Estonia và đang kỳ vọng sẽ giúp Việt Nam hình thành các công nghiệp dữ liệu trị giá hàng tỷ USD để đóng góp trực tiếp vào kinh tế số, chiếm 30% GDP vào năm 2030.
Đột phá thứ ba là nâng cấp VNeID thành siêu nền tảng số quốc gia, trung tâm của hệ sinh thái số. Đây là một giải pháp để VNeID không chỉ là ứng dụng định danh mà trở thành điểm truy cập duy nhất, kết nối liền mạch giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân.
Đột phá thứ tư là triển khai chiến lược phát triển công dân số quốc gia với cơ chế khuyến khích đột phá. Đây là giải quyết điểm nghẽn về nguồn lực nhân lực cho xã hội số. Bộ Công an đang chủ trì xây dựng Nghị quyết phát triển công dân số, văn bản pháp lý đầu tiên của Việt Nam quy định toàn diện về công dân số.
Đột phá thứ năm là triển khai có hiệu quả khung kiến trúc dữ liệu quốc gia để các bộ ngành căn cứ vào đó xây dựng khung kiến trúc cho bộ, ngành, địa phương mình, và xây dựng nghị định tổ chức hoạt động của Trung tâm Dữ liệu Quốc gia như Thủ tướng đã chỉ đạo.
"Năm đột phá chiến lược Bộ Công an đề xuất không phải là 5 mảnh ghép rời rạc mà sẽ là hệ thống tích hợp tác động đến các trụ cột phát triển kinh tế dữ liệu. Khi có hệ sinh thái dữ liệu quốc gia lấy con người làm trung tâm thì từng bước đẩy nhanh chuyển đổi số. Và khi có lực lượng sản xuất trình độ cao, xã hội số sẽ hình thành tự nhiên; khi có dữ liệu tin cậy, tất cả sẽ phát triển bền vững. Bộ Công an tin tưởng rằng kinh tế dữ liệu là con đường để Việt Nam không chỉ đuổi kịp mà vượt lên, đạt mục tiêu mà Đảng, Nhà nước đã đề ra. Bộ Công an cam kết đồng hành cùng Chính phủ, doanh nghiệp và toàn thể người dân để thực hiện từ khóa: Đưa Việt Nam phát triển hùng cường và phồn vinh", ông Cương khẳng định,