ư vấn đã kiến nghị lựa chọn công nghệ động lực đoàn tàu phân tán EMU mà nhiều tàu ở các nước tiên tiến trên thế giới đang sử dụng như: Shinkasen (Nhật Bản), TGV (Pháp), ICE3 (Đức), CRH (Trung Quốc)... (Trong ảnh: Tàu ICE 3, Đức) |
Sáng nay, Bộ GTVT đã tổ chức Hội nghị nghe Báo cáo cuối kỳ - Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc Nam do Liên danh tư vấn TEDI-TRICC-TEDISouth lập với sự hỗ trợ của Liên danh PADECO – FUKKEN – YACHIO - ERNST&YOUNG.
Theo đề xuất của đơn vị tư vấn, tuyến đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc Nam có điểm đầu trong giai đoạn đầu kết nối tuyến đường sắt tốc độ cao vào ga Hà Nội bằng cách đi chung hạ tầng với tuyến đường sắt đô thị số 1. Trong tương lai khi nhu cầu tăng cao, tuyến đường sắt đô thị số 1 không đủ năng lực đáp ứng để khai thác thêm tàu tốc độ cao thì tàu tốc độ cao dừng tại Ngọc Hồi. Điểm cuối, dự kiến tại ga Thủ Thiêm, quận 2 Tp.HCM, được kết nối với mạng lưới đường sắt đô thị thành phố;
Sau khi tiến hành rà soát hướng tuyến, vị trí ga, depot và trạm bảo dưỡng và làm việc với 20 tỉnh/thành phố có dự án đi qua; để đảm bảo phù hợp với quy hoạch, hiệu quả đầu tư dự án, nghiên cứu lần này đã đề xuất tổng chiều dài khoảng 1545km (cầu chiếm 60%, hầm chiếm 10%, đường chiếm 30%), đường đôi - khổ 1435mm - điện khí hóa; bao gồm: 24 ga và 03 ga quy hoạch tiềm năng, 5 depot, 42 cơ sở bảo trì hạ tầng, với các tiêu chí cụ thể về hướng tuyến, vị trí đặt ga, vị trí depot, trạm bảo dưỡng.
Về Kịch bản phát triển đường sắt trên trục Bắc – Nam, đối với đường sắt hiện có, đơn vị tư vấn đề xuất nâng cấp tối ưu hóa năng lực đường đơn của tuyến đường sắt hiện tại để khai thác vận tải hàng hóa và hành khách địa phương và xây dựng tuyến mới để khai thác tàu khách với định hướng về lâu dài khai thác với tốc độ 320km/h (tốc độ thiết kế 350km/h).
Công nghệ xây dựng tuyến mới được đề xuất là động lực đoàn tàu phân tán (EMU); công nghệ tín hiệu điều khiển sử dụng sóng vô tuyến. Dự kiến, tổng mức đầu tư (TMĐT) Dự án khoảng 58,71 tỷ USD.
Được biết, trong giai đoạn đầu, Dự án triển khai đầu tư xây dựng và đưa khai thác vào năm 2032 đối với 2 đoạn là Hà Nội - Vinh (dài 282,65km, TMĐT dự kiến 13,97 tỷ USD) và Nha Trang - TP. Hồ Chí Minh (dài 362,15km, TMĐT dự kiến 13,37 tỷ USD); đoạn còn lại (Vinh - Nha Trang dài khoảng 901km) sẽ được tiếp tục xây dựng từ năm 2035 và phấn đấu hoàn thành đưa vào khai thác toàn tuyến vào năm 2050).
Hình thức đầu tư được lựa chọn là theo hình thức PPP (nhà nước đầu tư hạ tầng, nhà đầu tư mua sắm đoàn tàu), trong đó, vốn nhà nước khoảng 80% (cần huy động hàng năm chiếm từ 0,35 - 0,55% GDP và bằng khoảng 10% vốn đầu tư cơ sở hạ tầng). Vốn tư nhân khoảng 20% được huy động từ các Nhà đầu tư. Ngoài ra, trong bước tiếp theo còn nghiên cứu thêm khả năng huy động vốn ngoài ngân sách từ việc xã hội hóa đầu tư đối với các công trình nhà ga tại các đô thị lớn, có lợi thế thương mại thông qua khai thác quỹ đất và phát triển dịch vụ, trung tâm thương mại.
Đơn vị tư vấn đề xuất thành lập 1 công ty đầu tư và quản lý hạ tầng đường sắt tốc độ cao; và thành lập 1 công ty vận tải đường sắt tốc độ cao, Công ty này sẽ đầu tư phương tiện, tổ chức vận hành khai thác và bảo dưỡng hạ tầng, phương tiện và trả phí thuê cơ sở hạ tầng cho công ty đầu tư và quản lý hạ tầng.
Theo kế hoạch, Bộ GTVT sẽ hoàn thiện báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án trong tháng 11/2018; tổ chức thẩm định của Hội đồng thẩm định Nhà nước: tháng 12/2018 - 4/2019; báo cáo các cấp có thẩm quyền: tháng 5/2019 - 7/2019; hoàn thiện báo cáo NCTKT Dự án để trình Chính phủ: tháng 8/2019; Chính phủ trình Quốc hội: tháng 8/2019.Thông qua Quốc hội: tháng 10/2019.
Trường hợp được Quốc hội thông qua sẽ triển khai chuẩn bị nghiên cứu khả thi, thiết kế kỹ thuật, GPMB từ 2020 - 2025. Triển khai xây dựng từ 2026, dự kiến đưa vào khai thác đoạn ưu tiên (bao gồm cả đoạn thử nghiệm) năm 2032; tiếp tục triển khai xây dựng các đoạn còn lại từ 2035, phấn đấu hoàn thành toàn tuyến vào năm 2050.