Ngân hàng - Bảo hiểm
Doanh nghiệp tăng phụ thuộc vào vốn ngân hàng: Cách nào để “bẩy” các nguồn vốn khác
Hà Tâm - 27/12/2025 11:14
Trong cơ cấu cung ứng vốn cho nền kinh tế, nếu cách đây 5 năm, tín dụng chỉ chiếm 42% thì năm 2025 đã tăng lên 57%, trong khi kênh trái phiếu và cổ phiếu lại teo dần.

Ngân hàng “hụt” tới 5 triệu tỷ đồng vốn trung, dài hạn

Theo khảo sát của Viện Đào tạo và Nghiên cứu kinh tế BIDV, trong cơ cấu cung ứng vốn cho nền kinh tế theo kênh dẫn vốn, năm 2017, tín dụng ngân hàng chiếm 42%, cổ phiếu chiếm 2,7%, trái phiếu doanh nghiệp chiếm 28,2%, đầu tư công chiếm 5,6%, còn lại là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và doanh nghiệp tư nhân.

Tuy nhiên, đến hết tháng 9/2025, sau 5 năm, tín dụng ngân hàng đã chiếm tới 57% tổng cung ứng vốn cho nền kinh tế, đầu tư công cũng vọt lên 15%, riêng kênh cổ phiếu teo lại chỉ chiếm 0,4% và kênh trái phiếu doanh nghiệp chỉ chiếm 3,9%. Điều này cho thấy, nền kinh tế phụ thuộc ngày càng lớn vào tín dụng ngân hàng, trong khi thị trường vốn vẫn chưa thể khai thông.

“Mỗi năm, chúng ta chỉ huy động được 100.000 - 150.000 tỷ đồng qua thị trường chứng khoán và chỉ 400.000 - 500.000 tỷ đồng qua kênh trái phiếu doanh nghiệp - con số còn quá nhỏ bé so với tín dụng ngân hàng. Hiện tỷ lệ tín dụng/GDP đã lên tới 147% tính tới cuối năm nay và có thể đạt 180-185% GDP vào năm 2030 nếu tín dụng tiếp tục tăng nhanh như hiện nay. Đây là vấn đề phải hết sức cẩn trọng”, TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng khuyến nghị.

Một số nghiên cứu cho thấy, quy mô tín dụng/GDP ở các nước ASEAN tối ưu là 96,5%. Trong khi đó, một số chuyên gia khác khuyến nghị, tỷ lệ tín dụng/GDP dao động quanh mức 80-120% là phù hợp. Tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam hiện cao hơn rất nhiều mức khuyến nghị này.

Việt Nam cần tập trung đa dạng hóa nguồn vốn.

- TS. Lê Xuân Sang, Phó viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam và thế giới

Trong 5 - 10 năm tới, Việt Nam cần tập trung đa dạng hóa nguồn vốn thông qua thị trường chứng khoán, phát triển các tổ chức xếp hạng tín nhiệm và định hướng dòng vốn vào những lĩnh vực có lợi thế so sánh cao như năng lượng tái tạo, thương mại điện tử và hệ sinh thái ươm tạo công nghệ. Những lĩnh vực này có khả năng nâng cao năng suất mà ít tạo áp lực lạm phát, qua đó giảm phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng.

Trong bối cảnh thanh khoản hệ thống ngày càng eo hẹp, rủi ro đang hiện hữu nếu tín dụng tiếp tục tăng nhanh. Theo các chuyên gia, tính đến cuối tháng 11/2025, tín dụng tăng gần 16,6%, trong khi huy động vốn chỉ tăng 13,5%. Quy mô huy động vốn đang thấp hơn quy mô tín dụng khoảng 2 triệu tỷ đồng.

Riêng đối với vốn trung, dài hạn, mức độ thiếu hụt thanh khoản càng lớn hơn. Trong 9 tháng đầu năm nay, huy động vốn trung, dài hạn đạt khoảng 3,2 triệu tỷ đồng, trong khi dư nợ cho vay trung, dài hạn là 8,3 triệu tỷ đồng, tức là bị hụt tới 5 triệu tỷ đồng.

Không thể dựa mãi vào tín dụng ngân hàng

Theo tính toán của các chuyên gia, để đạt mục tiêu tăng trưởng 2 con số giai đoạn tới, nhu cầu vốn giai đoạn 2026-2030 là khoảng 260 tỷ USD/năm (ước tổng vốn đầu tư toàn xã hội cần huy động tương đương khoảng 39% GDP). Sang giai đoạn 2031-2045, con số này sẽ lên tới 500 tỷ USD/năm. Để đáp ứng nhu cầu vốn khổng lồ này, dựa quá lớn vào ngành ngân hàng sẽ rủi ro rất cao, đặc biệt trong bối cảnh huy động vốn đang tăng chậm hơn nhiều so với tín dụng.

“Không có cơ sở để kết luận rằng, tín dụng cần tăng trưởng gấp đôi tăng trưởng GDP, bởi để phục vụ nhu cầu tăng trưởng, ngoài nguồn tín dụng, cần phải có nhiều nguồn vốn khác”, TS. Cấn Văn Lực khuyến nghị.

Theo chuyên gia này, có ít nhất 7-8 kênh huy động vốn khác cần đẩy mạnh trong thời gian tới, như tài chính xanh; thị trường vốn (cổ phiếu, trái phiếu…); đa dạng hóa các định chế tài chính (cho thuê tài chính, quỹ đầu tư, quỹ hưu trí...); sớm vận hành thí điểm thị trường carbon; trung tâm tài chính quốc tế, thị trường tài sản mã hóa…

Trong khi đó, ông Phạm Xuân Hòe, Tổng thư ký Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam cũng kiến nghị, cần phát triển đa dạng các doanh nghiệp cho vay không huy động vốn, như các công ty cho thuê tài chính. Các doanh nghiệp này không được huy động tiền gửi dân cư, nên sẽ không đem lại hệ lụy lớn trong xã hội. Thực tế, rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh trong lĩnh vực này muốn gia nhập thị trường Việt Nam, nhưng gặp nhiều rào cản. 

Ngoài đa dạng hóa nguồn vốn, theo TS. Cấn Văn Lực, để đạt mục tiêu trở thành nước phát triển vào năm 2045, Việt Nam không thể tiếp tục đi theo lối mòn tăng trưởng dựa chủ yếu vào vốn và lao động, mà phải dịch chuyển sang dựa vào Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP), cải cách thể chế và khoa học công nghệ.

Tin liên quan
Tin khác