Thời sự
Hệ thống điện đang phải huy động nhiều nguồn điện có giá thành sản xuất cao
Thanh Hương - 31/10/2023 18:51
Sản lượng phát thực tế của các loại hình nguồn điện có giá thành sản xuất cao từ đầu năm 2023 tới nay và dự kiến cho cả năm 2023 tiếp tục gia tăng, nhất là so với năm 2022.

Nhiệt điện than, nhiệt điện dầu, năng lượng tái tạo huy động cao

Theo Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho hay, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và hiện tượng El Nino dẫn tới tình hình thủy văn không thuận lợi, nước về các hồ thủy điện rất thấp đặc biệt tại khu vực miền Bắc nên vào thời kỳ cuối mùa khô (từ giữa tháng 5 đến giữa tháng 6), hầu hết các hồ thủy điện lớn miền Bắc đã suy giảm về mức nước chết bao gồm Lai Châu, Sơn La, Tuyên Quang, Bản Chát, Hủa Na, Thác Bà.

Mực nước trong hồ thuỷ điện Hoà Bình ngày 13/6/2023 xuống mức rất thấp, còn cách mực nước chết hơn 22 mét

Cộng thêm một số tổ máy nhiệt điện lớn (như S6 - Phả Lại 2, S1 - Vũng Áng 1, S1 - Cẩm Phả, S1 - Nghi Sơn 2...) bị sự cố kéo dài, không đảm bảo khả dụng để huy động theo nhu cầu hệ thống, nắng nóng diễn ra trên diện rộng và kéo dài,... do đó EVN đã phải huy động tối đa các nguồn nhiệt điện kể cả phát dầu để đảm bảo việc cung cấp điện cho đời sống nhân dân và hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp cả nước.

Ước tính cả năm 2023, sản lượng phát thực tế của các loại hình nguồn điện so với phương án vận hành hệ thống điện đã được Bộ Công Thương duyệt cũng có những biến động lớn.

Cụ thể, thủy điện giảm khoảng 13,9 tỷ kWh, nhiệt điện than tăng khoảng 9,3 tỷ kWh, nhiệt điện dầu tăng khoảng 1,2 tỷ kWh và năng lượng tái tạo tăng 1,3 tỷ kWh.

Mặt khác, nếu so sánh với thực tế đã thực hiện năm 2022 thì sản lượng thủy điện giảm 22,5 tỷ kWh, nhiệt điện than tăng 28,2 tỷ kWh, nhiệt điện dầu tăng 1,2 tỷ kWh và năng lượng tái tạo tăng 2,8 tỷ kWh.

Stt

Loại hình

nguồn điện

Thực hiện

Năm 2022

Kế hoạch

Năm 2023

Ước thực hiện

Năm 2023

Chênh

 T/hiện -K/hoạch 2023

Tỷ

kWh

Tỷ

trọng

Tỷ

kWh

Tỷ

trọng

Tỷ

kWh

Tỷ

trọng

Tỷ

kWh

Tỷ

trọng

1

Thuỷ điện

97,3

36,2%

88,7

33,0%

74,8

28,5%

(13,9)

-4,6%

2

 Nhiệt điện than

90,9

33,8%

109,8

40,8%

119,1

45,3%

9,3

4,4%

3

 Tua bin khí

28,5

10,6%

28,5

10,6%

25,4

9,6%

(3,1)

-0,9%

4

 Nhiệt điện dầu

0,0

0,0%

-

0,0%

1,2

0,5%

1,2

0,5%

5

 Nhập khẩu

3,2

1,2%

4,6

1,7%

4,1

1,5%

(0,5)

-0,2%

6

 NLTT

35,6

13,2%

37,1

13,8%

38,4

14,6%

1,3

0,8%

 

 TỔNG

255,6

95,1%

268,7

100,0%

263,0

100,0%

(5,70)

0,0%

Giá nhiên liệu cho sản xuất điện vẫn ngất ngưởng

Giá nhiên liệu các tháng vừa qua của năm 2023 mặc dù có giảm so với năm 2022, tuy nhiên vẫn ở mức cao so với giai đoạn các năm 2020-2021.

Cụ thể, giá than nhập gbNewC tăng 2,97 lần so với năm 2020, tăng 1,30 lần so với năm 2021. Giá dầu HSFO cũng tăng 1,86 lần so với năm 2020 và tăng 1,13 lần so với năm 2021.

Dù các thông số đầu vào mặc dù đã giảm so với năm 2022 nhưng vẫn tiếp tục duy trì ở mức cao so với các năm trước đây (bao gồm các thông số đầu vào cho các nhà máy điện sử dụng than nhập, than pha trộn, các nhà máy điện tuabin khí như các chỉ số gbNewC, ICI3, dầu HSFO, dầu Brent).

Các dự báo cũng cho hay, giá than nhập khẩu NewC Index dự kiến năm 2023 tăng 186% so với 2020 và 25% so với năm 2021.

Caption ảnh

Than pha trộn của TKV cung cấp năm 2023 cũng có mức giá bình quân dự kiến tăng từ 29,6% đến 46,0% (tuỳ từng chủng loại than) so với giá than áp dụng năm 2021.

Than pha trộn do Tổng công ty Đông Bắc cung cấp năm 2023 cũng có mức tăng giá bình quân từ 40,6% đến 49,8% (tuỳ từng chủng loại than) so với giá than áp dụng năm 2021.

Giá dầu thô Brent cũng được dự báo tăng 86% so với giá dầu thô Brent bình quân năm 2020 và tăng 13% so với năm 2021.

Với nguồn nhiệt điện khí, hiện nay do khí Nam Côn Sơn (Lô 06.1, có giá khí tại mỏ khoảng 3 USD/triệu BTU) suy giảm sản lượng mạnh nên các nhà máy nhiệt điện khí (Phú Mỹ 1, Phú Mỹ 2.1, Phú Mỹ 2.1 mở rộng, Phú Mỹ 4, Nhơn Trạch 1&2 và Bà Rịa) tiếp nhận nhiều khí Hải Thạch - Mộc Tinh, Sao Vàng - Đại Nguyệt và khí Đại Hùng, Thiên Ưng có giá cao, đặc biệt khí Thiên Ưng, Sao Vàng - Đại Nguyệt có giá rất cao.

 Nhà máy nhiệt điện Nhơn Trạch 2 chạy bằng khí 

Cộng thêm tỷ giá ngoại tệ cũng tăng mạnh, bình quân năm 2023 dự kiến tăng 4% so với năm 2021.

Do giá nhiên liệu tăng cao, làm cho giá thành các nguồn nhiệt điện than và tua bin khí tăng rất cao - trong khi các nhà máy nhiệt điện than và khí chiếm tỷ trọng sản lượng điện phát lên tới 55% tổng sản lượng điện phát toàn hệ thống của năm 2023.  

Theo EVN, tuy giá than nhập tính toán trong phương thức vận hành tháng 10/2023 có giảm so với số liệu sử dụng trong tính toán phương thức vận hành tháng 3/2023 (giá dầu tăng) nhưng việc phải tăng cường huy động các nguồn nhiệt điện có giá mua cao để bù đắp sản lượng thiếu hụt của nguồn thủy điện do không đủ nước theo kế hoạch dẫn đến chi phí sản xuất kinh doanh điện của EVN cập nhật quý III năm 2023 tiếp tục tăng cao.

Ngoài ra, có nhiều nhà máy điện mặt trời, điện gió chuyển tiếp được đưa vào vận hành từ tháng 6 năm 2023 (tổng số là 21 nhà máy với tổng công suất 1.20 MW) nên sản lượng điện của các nhà máy điện năng lượng tái tạo trong phương án giá bán lẻ điện bình quân cập nhật quý III cũng tăng so với phương án giá điện cơ sở (phương án điều chỉnh giá điện ngày 04/5/2023).

EVN cũng cho hay, hiện nay, trong cơ cấu giá thành sản xuất điện, giá thành khâu phát điện chiếm tỷ trọng tới 82,8% giá thành nên những biến động của giá thành khâu phát điện sẽ ảnh hướng rất lớn đến giá thành sản xuất điện.

Cũng do cơ cấu chi phí phát điện chiếm tỷ trọng lớn (82,8%), cơ cấu sản lượng thay đổi theo hướng bất lợi (các nguồn mua có giá rẻ giảm, nguồn mua có giá đắt tăng), giá các loại nhiên liệu năm 2023 vẫn ở mức cao so với năm 2020-2021, dẫn tới chi phí sản xuất và mua điện vẫn tăng cao.

Với một số yếu tố đầu vào cơ bản ảnh hưởng giá thành như ở trên cũng như các biện pháp tiết kiệm chi phí đã được thực hiện, thì giá thành sản xuất điện năm 2023 được ước tính khoảng 2.098 đồng/kWh, cao hơn giá bán lẻ điện bình quân khoảng 178 đồng/kWh.

Mặc dù giá bán lẻ điện đã được điều chỉnh tăng 3% từ ngày 04/5/2023, doanh thu của EVN năm 2023 tăng thêm khoảng 8.000 tỷ đồng, tuy nhiên điều này cũng chỉ giải quyết được một phần khó khăn về tài chính và EVN vẫn phải tiếp tục đối mặt với rất nhiều khó khăn trong cân bằng tài chính.

Trong bối cảnh tình hình tài chính gặp nhiều khó khăn, trong các năm 2022-2023, EVN đã đề ra và quyết liệt thực hiện các giải pháp tiết kiệm, tiết giảm chi phí với kết quả thực hiện được tiết kiệm chi phí trong 9 tháng đầu năm 2023 là khoảng hơn 4.300 tỷ đồng; trong đó có một số biện pháp tiết kiệm chi phí điển hình đã được thực hiện như: tiết kiệm tối thiểu 10% các chi phí thường xuyên theo kế hoạch định mức; cắt giảm từ 20-30% chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định của tất cả các đơn vị thành viên của EVN,...

Theo đó, giá thành khâu truyền tải, phân phối - bán lẻ và phụ trợ giảm dần qua các năm. Năm 2020, giá thành các khâu này là 392,9 đ/kWh nhưng ước năm 2023 vào khoảng 347 đ/kWh.

Tin liên quan
Tin khác