Bộ trưởng Bộ Lao động, thương binh và xã hội Đào Ngọc Dung chuẩn bị trả lời chất vấn tại Quốc hội. |
Ngày 8/11, Bộ trưởng Bộ Lao động, thương binh và xã hội Đào Ngọc Dung đã gửi đến các vị đại biểu Quốc hội báo cáo một số nội dung liên quan đến nhóm vấn đề chất vấn tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá XV.
Theo chương trình, ông Dung sẽ trả lời chất vấn trực tiếp trước Quốc hội từ chiều 10/11.
Vẫn có nơi sợ trách nhiệm
Thực hiện các gói hỗ trợ cho đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 là một trong các nhóm vấn đề được Bộ trưởng báo cáo.
Bộ trưởng cho biết, theo báo cáo của Sở Lao động, thương binh và xã hội của 63 tỉnh, thành phố đến ngày 7/11/2021, tổng kinh phí phê duyệt thực hiện Nghị quyết 68, Quyết định 23 toàn quốc là 26,39 nghìn tỷ đồng, hỗ trợ 26,98 triệu lượt đối tượng (gồm 377.225 lượt đơn vị sử dụng lao động, 26,6 triệu lượt người lao động và các đối tượng khác).
Trong đó, tổng kinh phí thực hiện chính sách hỗ trợ bằng tiền là 20,28 nghìn tỷ đồng, hỗ trợ 15,01 triệu đối tượng, (trong đó 89,4% số đối tượng và 90,5% tổng kinh phí được hỗ trợ tại 23 tỉnh, thành phố miền Nam ).
720.260 người lao động tạm hoãn hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương tại 60/63 tỉnh, thành phố được hỗ trợ với tổng số tiền 2.254 tỷ đồng.
251.480 người lao động ngừng việc tại 55/63 tỉnh, thành phố được hỗ trợ 321,3 tỷ đồng.
1.375 người lao động chấm dứt hợp đồng lao động tại 45/63 tỉnh, thành phố được hỗ trợ 5,28 tỷ đồng.
685.210 đối tượng F0, F1 đã được hỗ trợ tiền ăn với tổng kinh phí 358 tỷ đồng và 23.130 trẻ em là đối tượng F0, F1 được hỗ trợ bổ sung với mức 01 triệu đồng/trẻ em. Ngoài ra, 7.080 người lao động mang thai và 151.640 trẻ em dưới 6 tuổi là con của người lao động cũng đã nhận được hỗ trợ bổ sung với mức 01 triệu đồng/người. 1.490 đạo diễn nghệ thuật, diễn viên, họa sĩ giữ chức danh nghề nghiệp hạng IV tại 52/63 tỉnh, thành phố được hỗ trợ kinh phí 5,53 tỷ đồng. 8.690 hướng dẫn viên du lịch tại 54/63 tỉnh, thành phố được hỗ trợ kinh phí 33,6 tỷ đồng.
176.970 hộ kinh doanh tại 59/63 tỉnh, thành phố được hỗ trợ với kinh phí 488,7 tỷ đồng.
Trên 12,99 triệu người lao động tự do và các đối tượng đặc thù tại 56/63 tỉnh, thành phố đã được hỗ trợ với tổng kinh phí 16,69 nghìn tỷ đồng từ các nguồn ngân sách nhà nước, nguồn vận động của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các công ty xổ số kiến thiết,…
Nhìn nhận hạn chế khi thực hiện chính sách này, ông Dung cho rằng một bộ phận người dân, người lao động và người sử dụng lao động thuộc đối tượng thụ hưởng chưa được hưởng hoặc chậm được thụ hưởng.
Nhìn chung, mức hỗ trợ còn thấp. Một số chính sách có tỷ lệ đạt thấp, như chính sách đối với đối tượng là người lao động tạm hoãn hợp đồng lao động, chính sách cho người sử dụng lao động vay tiền để trả lương ngừng việc và phục hồi sản xuất đạt thấp so với dự tính ban đầu.
Việc triển khai thực hiện công tác xác lập hồ sơ, công tác hỗ trợ tại một số địa phương vẫn còn chậm. Một số địa phương gặp khó khăn về kinh phí, sợ sai, sợ trách nhiệm nên chậm hoặc chưa hỗ trợ đối tượng; cá biệt có nơi vẫn còn tình trạng lợi dụng dịch bệnh COVID-19 để trục lợi, bị xem xét, xử lý theo quy định pháp luật.
Chính sách chưa có tiền lệ
Về kết quả triển khai Nghị quyết 116/NQ-CP, ông Dung thông tin đã thực hiện với tổng kinh phí là 38.000 tỷ đồng, trong đó hỗ trợ người lao động là 30 nghìn tỷ đồng từ kết dư Quỹ bảo hiểm thất nghiệp; giảm đóng vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp cho người sử dụng lao động khoảng 8.000 tỷ đồng.
Trong đó, đến ngày 7/11/2021, đã giải quyết hưởng hỗ trợ cho trên 9,41 triệu lao động thuộc đối tượng đang tham gia BHTN và trên 654.600 người đã dừng tham gia (bằng 87,43% số đề nghị hưởng) với tổng số tiền hỗ trợ là hơn 23.965 tỷ đồng.
Bộ trưởng nêu rõ, đây là chính sách chưa có tiền lệ nhằm hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp trong phòng, chống dịch, qua triển khai nhận được sự quan tâm, ủng hộ lớn của đối tượng và dư luận xã hội.
Chính sách này vừa đảm bảo nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng; vừa có sự chia sẻ rủi ro; thể hiện vai trò “giá đỡ” của quỹ BHTN cho chủ sử dụng lao động và người lao động. Thủ tục đơn giản, thuận tiện, người lao động và người sử dụng lao động nhận được sự hỗ trợ nanh chóng, kịp thời, chủ yếu hỗ trợ qua tài khoản và trên cơ sở dữ liệu đã có.
Việc hỗ trợ, theo Bộ trưởng là đang được tiến hành khẩn trương, tuy nhiên hiện nay còn một số lượng nhỏ đơn vị đang rà soát danh sách lao động thuộc đối tượng hưởng hỗ trợ do khó khăn trong việc xác định các đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định tại Quyết định số 28/2021/QĐ-TTg. Để đảm bảo việc giải quyết và chi trả hỗ trợ đúng đối tượng, hạn chế tối đa các nguy cơ trục lợi, cơ quan bảo hiểm xã hội cần có thời gian nhất định để kiểm tra, đối chiếu chặt chẽ các điều kiện về thông tin cá nhân với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; thông tin về tài khoản ngân hàng của người lao động.