Trở lại vị thế nước xuất khẩu dầu
Thị trường dầu mỏ đã thay đổi rất nhiều trong thập kỷ qua. Ví dụ, đây là dữ liệu mới nhất về nhập khẩu và xuất khẩu dầu thô và các sản phẩm dầu mỏ của Mỹ, do Cơ quan Thông tin Năng lượng (EIA) phát hành vào cuối tháng trước:
Mỹ trước đây là nước nhập khẩu dầu thô lớn, nhưng hiện giờ tình thế đã thay đổi. Theo dự báo mới nhất của EIA thì là nó sẽ là “nước xuất khẩu ròng dầu thô ở mức độ nhẹ” từ năm 2029 đến năm 2045. Không có tổ chức nào, kể cả EIA, đã dự đoán một sự gia tăng lớn trong sản xuất dầu của Mỹ trong trong thập kỷ qua, vì vậy, hãy để dự báo qua một bên. Điều gì đã xảy ra là rất đáng chú ý. Ví dụ, ở đây là quan điểm dài hạn về xuất khẩu dầu thô của Mỹ:
Vai trò của dầu trong nền kinh tế Mỹ đã thay đổi rất nhiều và quá nhanh nhờ vào công nghệ khoan thủy lực và các phương pháp mới khác để lấy dầu từ đá phiến mà đôi khi nó phải tạm dừng để xem xét xem điều này có thể gây ra tác dụng phụ gì. Trước đây giới phân tích đã đề cập về vai trò của sự bùng nổ dầu khí trong việc kìm hãm thâm hụt thương mại, và khiến nước này khó khăn hơn để "đóng vai trò hàng đầu trong việc định hình bức tranh năng lượng nhiên liệu hóa thạch". Chúng ta hãy cũng phân tích một tác động của sự bùng nổ dầu mỏ tại Mỹ đối với chu kỳ kinh doanh của nước này.
Câu chuyện kinh điển về dầu mỏ và nền kinh tế Mỹ, như Đại học California tại San Diego kinh tế James D. Hamilton đặt ra trong một bài báo năm 1983 là giá dầu mạnh tăng có thói quen gây suy thoái. Hamilton viết vào năm 2005 rằng: "Cơ chế ảnh hưởng của những cú sốc dầu mỏ đến nền kinh tế là thông qua một sự gián đoạn trong chi tiêu của người tiêu dùng và các công ty trên hàng hóa khác."
Bởi vì Mỹ sản xuất ít dầu hơn so với sử dụng, giá dầu quá khứ tăng không chỉ lấy tiền từ túi của người Mỹ, mà còn khiến tiền chảy ra nước ngoài. Sự bùng nổ sản xuất dầu của Mỹ và sự suy giảm thâm hụt thương mại giảm trong dầu thường thay đổi phương trình đó, ít nhất là một chút.
Chưa có một sự tăng giá lớn kể từ khi sự bùng nổ dầu mỏ của Mỹ bắt đầu (một phần vì sự bùng nổ dầu mỏ của Mỹ đã loại trừ nó), nhưng đã có một sự sụp đổ lớn trong nửa cuối năm 2014, với giá dầu thô giảm 59% chỉ trong sáu tháng. "Sự suy giảm này tạo ra một sự kích thích khoảng 0,7 điểm phần trăm của tăng trưởng GDP thực tế bằng cách tăng mức tiêu thụ thực sự," các nhà kinh tế Christiane Baumeister của Đại học Notre Dame và Lutz Kilian của Đại học Michigan kết luận vào năm 2016. Tuy nhiên, ông nói thêm: "Hiệu ứng kích thích này phần lớn bị vô hiệu hóa bởi sự giảm đầu tư thực sự của ngành dầu mỏ”.
Kể từ đầu năm 2016, giá dầu đã phục hồi một phần, nhưng không đủ nhanh để tạo ra áp lực lớn trong chi tiêu của người tiêu dùng hoặc kinh doanh. Trong khi đó, đầu tư thực sự trong lĩnh vực dầu khí của Mỹ đã chạm đáy trong quý IV năm 2016 và, trong khi nó vẫn không trở lại mức trong những năm 2012-2014, đây dường như là một động lực chính cho tăng trưởng kinh tế năm ngoái và cho đến nay trong năm nay.
Steve Liesman của CNBC đã nói chuyện với một số nhà kinh tế vào tháng 5, người đã kết luận rằng giá dầu tăng hiện nay là một "yếu tố tích cực" cho nền kinh tế Mỹ. Xét cho cùng, tỷ lệ sử dụng năng lượng của nền kinh tế Mỹ - lượng năng lượng tiêu thụ trên một USD của tổng sản phẩm quốc nội thực - đã giảm dần từ đầu những năm 1970. Ít nhất, nền kinh tế Mỹ có thể hấp thụ giá năng lượng cao hơn một chút.
Mỹ sẽ điều khiển giá dầu?
Điều đó không có nghĩa là giá dầu tăng mạnh sẽ là một tin tuyệt vời cho nền kinh tế Mỹ. Sự gián đoạn gây ra cho các hộ gia đình và các doanh nghiệp phi dầu mỏ có thể lớn hơn lợi nhuận và tăng đầu tư của ngành công nghiệp năng lượng. Tỷ trọng hoạt động kinh tế trong khai thác và tinh chế dầu khí đã tăng cao hơn so với những năm 1990 và đầu những năm 2000, nhưng hơn 95% nền kinh tế trong tay người tiêu dùng dầu.
Trên thực tế, điều kiện kinh tế tốt nhất dường như là duy trì mức giá dầu đủ cao để cho phép các nhà khoan dầu thu được lợi nhuận nhưng vẫn ổn định. Trong nửa thế kỷ qua, tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ đã cố gắng (và thường xuyên thất bại) để giữ giá dầu có lợi nhuận cao và ổn định thông qua hạn ngạch sản xuất và các phương tiện khác.
Trong khi nó thường bị các chính trị gia Mỹ công kích - kể cả Tổng thống Donald Trump - vì hành vi không cạnh tranh, phi thị trường tự do này. Tuy nhiên, thực sự OPEC cũng chỉ là bắt chước Mỹ mà thôi, khi Ủy ban Đường sắt Texas quy định và hạn chế sản xuất dầu từ những năm 1930 cho tới những năm 1960. Trước đó, vào cuối những năm 1800, John D. Rockefeller đã khiến ngành công nghiệp dầu non trẻ bùng nổ bằng cách nắm quyền kiểm soát phần lớn nó. Giờ đây, Mỹ lại là một nước khai thác dầu mỏ lớn, giới phân tích cho rằng đừng quá sốc khi Mỹ lại lặp lại những hành vi của OPEC hay của chính họ trong quá khứ.