Ngân hàng - Bảo hiểm
Lãi suất điều hành có thể giảm thêm, ngân hàng tìm cách kích cầu tín dụng
T.L - 25/06/2023 09:12
Ngân hàng dồn dập giảm thêm lãi suất huy động, rậm rịch giảm lãi vay để kích cầu, lãi suất điều hành sẽ giảm thêm trong quý III/2023, TPDN vẫn khó khăn... là tiêu điểm ngân hàng tuần qua.

Sắp có thêm đợt giảm lãi suất cho vay

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang chuẩn bị họp với các ngân hàng thương mại, vận động các ngân hàng tiết giảm chi phí, giảm mặt bằng lãi vay để hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế.

Sau 4 đợt cắt giảm lãi suất điều hành của NHNN từ đầu năm đến nay, mặt bằng lãi suất huy động trên thị trường đã giảm rất mạnh. Theo khảo sát của Báo Đầu tư, giữa tuần này, lãi suất huy động tại nhóm ngân hàng big 4 kỳ hạn 1 - 2 tháng thấp nhất chỉ còn 3,4%/năm, lãi suất kỳ hạn 6 tháng chỉ từ 5%/năm và kỳ hạn cao nhất chỉ còn 6,3%/năm (kỳ hạn 12 - 18 tháng). Trong đó, lãi suất huy động thấp nhất thuộc về VietinBank. Trước đó, ông Trần Minh Bình, Chủ tịch HĐQT VietinBank cho biết, ngân hàng này lần đầu tiên tăng trưởng tín dụng âm trong tháng 5/2023 và phải “hãm” huy động vốn.

Nhóm ngân hàng TMCP tư nhân cũng công bố giảm lãi suất 0,1-0,3%/năm tùy từng kỳ hạn. Lãi suất tiết kiệm 8%/năm hầu như biến mất.

Theo Phó thống đốc Đào Minh Tú, lãi suất tiền gửi bình quân của các ngân hàng thương mại ở mức khoảng 5,8%/năm (giảm 0,7% so với cuối năm 2022); lãi suất cho vay bình quân VND ở mức khoảng 8,9%/năm (giảm 1,0%/năm so với cuối năm 2022). Đáng lưu ý, hiện nay, thanh khoản các tổ chức tín dụng đều đang rất dồi dào, kể cả các ngân hàng nhỏ. Đây cũng là một trong những lý do khiến lãi suất giảm sâu.

Mặc dù lãi suất giảm nhanh, nhưng tín dụng vẫn tăng trưởng rất chậm. Tháng 2/2023, NHNN đã giao room tín dụng cho NHTM cả nước là 11%, theo định hướng cả năm 14-15%. Dù vậy, đến ngày 15/6, tín dụng mới chỉ tăng 3,36% so với cuối năm 2022, tăng 8,94% so với cùng kỳ năm trước.

“Hạn mức không thiếu, huy động vốn không thấp, khả năng cung ứng vốn của các ngân hàng đầy đủ sẵn sàng. doanh nghiệp, lĩnh vực kinh tế cần vốn và đảm bảo khả năng trả nợ chắc chắn sẽ được vay vốn”, Phó thống đốc khẳng định.

Theo NHNN, tín dụng tăng chậm là do khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế rất yếu, bởi nhiều nguyên nhân, có từ ngân hàng, từ những lý do khách quan của nền kinh tế trong nước và ảnh hưởng bởi kinh tế thế giới. Doanh nghiệp khó khăn, dòng tiền đứt đoạn, hàng tồn kho nhiều, thậm chí một số doanh nghiệp phải giảm bớt người lao động. Trong khi đó, giá cả nguyên vật liệu nhập khẩu tăng cao dẫn tới giá cả hàng hoá tăng. Sức mua cũng suy yếu dẫn tới nhu cầu vay vốn thấp. 

Phó thống đốc Đào Minh Tú cho biết, NHNN sắp làm việc với ngân hàng thương mại, vận động giảm lãi suất huy động, tiết giảm chi phí để giảm lãi vay. "Lãi suất điều hành đã giảm thì các ngân hàng thương mại phải chia sẻ bằng việc chia sẻ lợi nhuận và giảm chi phí điều hành để giảm lãi suất cho vay", ông Tú nói. 

Cùng với việc vận động sự chia sẻ của các ngân hàng thương mại, NHNN cũng cho biết sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng để cho vay các chương trình đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, hỗ trợ quá trình cơ cấu lại tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu.

NHNN sẽ điều hành tăng trưởng khối lượng và cơ cấu tín dụng hợp lý, đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng nền kinh tế theo chủ trương của Chính phủ, kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng.

Đánh giá cao động thái giảm lãi suất 4 lần liên tiếp của NHNN, ông Trần Đức Nghĩa, Tổng giám đốc Công ty TNHH Quốc tế Delta cho rằng, mặt bằng lãi vay chắc chắn sẽ giảm xuống, giúp doanh nghiệp, người dân hưởng lợi. Theo ông Nghĩa, hiện nay, tất cả doanh nghiệp có phương án kinh doanh hiệu quả đều tiếp cận được vốn. Vì vậy, đây là lúc doanh nghiệp nên tận dụng cơ hội lãi suất rẻ để vượt qua khó khăn, tìm thị trường, bạn hàng tiềm năng mới.

Thiếu phương án kinh doanh khả thi, thiếu tài sản thế chấp, doanh nghiệp muốn ngành ngân hàng nới lỏng điều kiện, hạ chuẩn vay để có thể dễ bề tiếp cận vốn. Tuy vậy, các ngân hàng cho rằng, bản thân các ngân hàng thương mại cũng không hoàn toàn muốn dùng tài sản thế chấp để làm điều kiện vay, nhưng phần lớn doanh nghiệp không minh bạch về tài chính, nên khó thẩm định và nếu xảy ra nợ xấu thì ngân hàng đứng trước rủi ro lớn.

Đại diện MB cho rằng, ngân hàng và doanh nghiệp phải hiểu và chấp nhận nhau. Ngân hàng thương mại đang cố gắng giảm tối đa lãi suất, còn doanh nghiệp cần cố gắng cung cấp thông tin cho ngân hàng để cải thiện vấn đề tiếp cận vốn vay.

“Ai cũng mong muốn lãi suất cho vay thấp, nguồn cho vay nhiều. Chúng tôi cũng muốn tăng trưởng tín dụng, nhưng không phải bằng cách hạ chuẩn để “ném” tín dụng ra một cách vô lối. Tăng trưởng tín dụng phải đảm bảo chất lượng tín dụng, hiệu quả tín dụng. Đó là bài toán khó”, Phó thống đốc Đào Minh Tú nói.

Ngân hàng giảm lãi vay kích cầu tín dụng bất động sản

Sức ép đẩy tín dụng ra nền kinh tế khiến nhiều ngân hàng thương mại đưa ra các mức lãi suất cho vay hấp dẫn với người mua nhà. Theo các chuyên gia, để tín dụng bất động sản chảy mạnh trở lại, lãi suất cho vay cần giảm thêm.

Ngay sau khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) giảm lãi suất điều hành lần thứ tư vào đầu tuần này, hàng loạt ngân hàng thương mại đã điều chỉnh giảm lãi suất huy động và rục rịch giảm lãi suất cho vay. Trước đó, nhiều ngân hàng cũng chào mời các gói vay với lãi suất hấp dẫn dành cho bất động sản. Đơn cử, MSB chào mời vay mua nhà thổ cư với mức lãi suất từ 4,99%/năm, Shinhan Bank cho vay mua nhà với lãi suất 7,99%/năm, TPBank cho vay với lãi suất 8%/năm… 

Tuy nhiên, đây chỉ là lãi suất “mồi” để kích khách hàng. Theo khảo sát của phóng viên Báo Đầu tư, mức lãi suất dưới 10%/năm chỉ áp dụng trong 3 - 6 tháng, cao nhất là 1 năm. Sau đó, hầu hết các ngân hàng đều áp dụng lãi suất thả nổi, phổ biến ở mức 12 – 13,5%. 

Theo NHNN, tính đến hết tháng 5/2023, tín dụng toàn ngành kinh tế tăng 3,17%. Trước đó, tính đến ngày 25/4/2023, tín dụng toàn ngành tăng 2,75% so với cuối năm 2022, trong đó, tín dụng bất động sản tăng 3,51%. 

TS. Nguyễn Văn Đính, Phó chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Việt Nam (VNREA) kỳ vọng, việc NHNN hạ lãi suất lần thứ 4 sẽ giúp lãi suất cho vay mua nhà dần hạ nhiệt, từ đó tác động tích cực tới tín dụng mua nhà và thanh khoản thị trường bất động sản.   

Theo các chuyên gia kinh tế, khi chính sách hỗ trợ thực sự “ngấm” (lãi suất rẻ, giãn nợ trái phiếu, tái cơ cấu nợ, gói tín dụng 120.000 tỷ đồng…), thị trường sẽ sớm hồi phục trở lại.

Tìm cách đẩy vốn ra nền kinh tế trong bối cảnh tăng trưởng chậm lại là một trong những bài toán khó của Chính phủ và NHNN. Đầu tuần này (19/6), Phó thủ tướng Lê Minh Khái đã chủ trì Hội nghị giải pháp tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp và hấp thụ vốn của nền kinh tế với sự tham dự của lãnh đạo NHNN, các bộ, ngành, đại diện 10 ngân hàng thương mại giữ nguồn vốn chi phối và 5 hiệp hội ngành nghề.

Trước tình hình tín dụng tăng chậm, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú khẳng định, ngành ngân hàng cũng đang tìm cách để đẩy vốn ra nền kinh tế trong bối cảnh hệ thống vẫn phải duy trì hoạt động huy động vốn, phải trả lãi cho người gửi tiền.

Được biết, mới đây, NHNN đã có văn bản yêu cầu tổ chức tín dụng tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư Dự án bất động sản, người mua nhà tiếp cận tín dụng khi đáp ứng đầy đủ điều kiện cấp tín dụng theo quy định; tập trung nguồn đối với dự án bất động sản đủ điều kiện pháp lý, có khả năng tiêu thụ sản phẩm, có khả năng trả nợ vay đầy đủ và đúng hạn, đáp ứng nhu cầu thực của người dân, nhất là các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, nhà ở phù hợp với thu nhập của người dân và các loại hình bất động sản phục vụ mục đích sản xuất, kinh doanh, an sinh xã hội có hiệu quả cao, có khả năng trả nợ và phát triển.

Đồng thời, xem xét cấp tín dụng đối với cả chủ đầu tưnhà thầu xây dựng, người mua nhà và các đơn vị sản xuất cung cấp vật tư, vật liệu xây dựng để tăng khả năng luân chuyển vốn và thanh khoản cho thị trường bất động sản; chủ động kiểm soát chặt chẽ dòng tiền, mục đích sử dụng vốn vay, thu nợ đầy đủ, đúng hạn. Đẩy mạnh cho vay người mua nhà, thu nợ người bán nhà trong cùng một dự án.

Theo các chuyên gia kinh tế, tín dụng bất động sản không xấu. Nếu rót vào đúng phân khúc nhu cầu thực, tín dụng bất động sản tăng mạnh sẽ lan tỏa hơi ấm ra toàn thị trường, toàn bộ nền kinh tế.

TS. Châu Đình Linh, chuyên gia kinh tế cho rằng, đóng góp của ngành bất động sản với tăng trưởng kinh tế ở nước ta là rất lớn. Do đó, sự hỗ trợ với thị trường bất động sản lúc này là cần thiết để giúp thị trường phục hồi, bao gồm cả chính sách về vốn, tín dụng.

Trước mắt, khó khăn của thị trường bất động sản còn rất lớn. Tuy vậy, lãi suất giảm sẽ tiếp sức cho thị trường, giúp đầu tư bất động sản quay trở lại.

Ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP.HCM (HoREA), kỳ vọng, lãi vay rẻ sẽ giúp doanh nghiệp tự tin hơn trong thực hiện các dự án mới và giúp người mua nhà có thêm động lực vay vốn mua nhà. Tất nhiên, theo ông Châu, tín dụng bất động sản thời gian tới sẽ không còn dễ dãi mà sẽ được được giám sát chặt để “nắn” vào các phân khúc ưu tiên, tránh tình trạng bong bóng thời gian qua.

Lãi suất cho vay bình quân còn 8,9%/năm, tín dụng mới tăng 3,36%

Đến 15/6/2023, dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế đạt khoảng 12,32 triệu tỷ đồng, tăng 3,36% so với cuối năm 2022, tăng 8,94% so với cùng kỳ năm trước. 

Sáng 21/6, NHNN tổ chức họp báo thông tin kết quả hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm.

Từ đầu năm đến nay, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ chắc chắn, linh hoạt, chủ động, kịp thời, hiệu quả, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ, ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng.

Về lãi suất, qua 4 lần giảm lãi suất điều hành. Qua đó, NHNN đã: giảm 1,5%/năm lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu, giảm 2%/năm lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; Giảm 0,5-1,25%/năm lãi suất tối đa tiền gửi bằng VND kỳ hạn dưới 6 tháng; Giảm 1,5%/năm mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND của TCTD đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực, ngành kinh tế.

Đồng thời, NHNN tiếp tục khuyến khích các TCTD tiết giảm chi phí để ổn định mặt bằng lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh. Phó Thống đốc Đào Minh Tú cho hay, đến nay, lãi suất tiền gửi bình quân của các NHTM ở mức khoảng 5,8%/năm (giảm 0,7% so với cuối năm 2022); lãi suất cho vay bình quân VND ở mức khoảng 8,9%/năm (giảm 1,0%/năm so với cuối năm 2022).

Mặc dù lãi suất giảm nhanh nhưng tín dụng vẫn tăng trưởng chậm. Đến 15/6/2023, dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế đạt khoảng 12,32 triệu tỷ đồng, tăng 3,36% so với cuối năm 2022, tăng 8,94% so với cùng kỳ năm trước.

Phó Thống đốc cho biết, tín dụng tăng chậm là do cầu trong nước suy yếu, bản thân ngành ngân hàng rất sốt ruột vì tín dụng tăng chậm. Tuy vậy, các ngân hàng cũng không thể vì thế mà hạ chuẩn cho vay, vì sẽ tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn hệ thống.

“Ở góc độ NHNN cũng rất muốn tăng tín dụng, nhưng không phải bằng cách hạ chuẩn cấp tín dụng, mà tăng phải đảm bảo hiệu quả, chất lượng. Chúng tôi xác định, việc tăng tín dụng là nhiệm vụ quan trọng phải triển khai quyết liệt trong thời gian tới. Mức 3,36% thấp, nhưng cũng do tính khách quan của nền kinh tế nhu cầu vốn thấp”, Phó Thống đốc phân trần.

Theo lãnh đạo NHNN, tháng 2/2023 NHNN đã giao room tín dụng cho các NHTM cả nước là 11%, theo định hướng cả năm 14-15%. Đến nay mức 14-15% vẫn là mục tiêu cả năm. Dù vậy đến 15/6, tín dụng mới chỉ tăng 3,36%. Có thể thấy hạn mức không thiếu, huy động vốn cũng không phải thấp, khả năng cung ứng vốn của các ngân hàng đầy đủ sẵn sàng. Khả năng hấp thụ vốn yếu, bởi nhiều nguyên nhân, có từ ngân hàng, từ những lý do khách quan của nền kinh tế trong nước và ảnh hưởng bởi kinh tế thế giới. Doanh nghiệp hiện nay khá khó khăn, dòng tiền đứt đoạn, tồn hàng tồn kho nhiều, thậm chí một số doanh nghiệp phải giảm bớt người lao động. Trong khi đó, giá cả nguyên vật liệu nhập khẩu tăng cao dẫn tới giá cả hàng hoá tăng. Sức mua cũng suy yếu dẫn tới nhu cầu vay vốn thấp.

Hiện nay thanh khoản các tổ chức tín dụng đều đang rất dồi dào, kể cả các NHTM Nhà nước, các NHTM cổ phần lớn, nhỏ. Phó Thống đốc khẳng định, các doanh nghiệp, lĩnh vực kinh tế cần vốn và đảm bảo khả năng trả nợ chắc chắn sẽ được vay vốn.

Trong thời gian tới, NHNN cho biết sẽ điều hành nghiệp vụ thị trường mở linh hoạt, chủ động, sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống TCTD. Tái cấp vốn đối với TCTD để hỗ trợ thanh khoản, cho vay các chương trình đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, hỗ trợ quá trình cơ cấu lại TCTD và xử lý nợ xấu; Điều hành công cụ dự trữ bắt buộc phù hợp với diễn biến kinh tế, tiền tệ, các biện pháp điều hành chính sách tiền tệ khác để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ.

Đồng thời, điều hành lãi suất phù hợp với cân đối vĩ mô, lạm phát và mục tiêu CSTT; tiếp tục khuyến khích các TCTD tiết giảm chi phí, giảm mặt bằng lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh.

Điều hành tăng trưởng khối lượng và cơ cấu tín dụng hợp lý, đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng nền kinh tế theo chủ trương của Chính phủ, kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng...

Việt Nam tiếp tục không nằm trong Danh sách giám sát về thao túng tiền tệ

Ngày 17/6/2023, Bộ tài chính Hoa Kỳ (BTC Hoa Kỳ) ban hành Báo cáo về “Chính sách kinh tế vĩ mô và ngoại hối của các đối tác thương mại lớn của Hoa Kỳ” (sau đây gọi tắt là Báo cáo), tiếp tục dựa trên ba tiêu chí để xem xét khả năng thao túng tiền tệ của các đối tác thương mại chính, cụ thể là: (i) thặng dư thương mại song phương với Hoa Kỳ; (ii) thặng dư cán cân vãng lai; và (iii) can thiệp thị trường ngoại tệ một chiều, kéo dài.

Tại Báo cáo này, BTC Hoa Kỳ đưa 7 nền kinh tế vào Danh sách giám sát, bao gồm: Trung Quốc, Hàn Quốc, Đức, Malaysia, Singapore, Thụy Sĩ và Đài Loan. Đồng thời, BTC Hoa Kỳ kết luận không có đối tác thương mại lớn nào của Hoa Kỳ thao túng tiền tệ trong giai đoạn từ tháng 01-12/2022. Trong giai đoạn nêu trên, Việt Nam vượt ngưỡng 1 tiêu chí về thặng dư thương mại hàng hoá và dịch vụ với Hoa Kỳ, do đó BTC Mỹ tiếp tục không đưa Việt Nam vào Danh sách giám sát.

Tại các cuộc làm việc song phương với ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), BTC Hoa Kỳ tiếp tục đánh giá cao công tác điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá thời gian qua đã duy trì được sự ổn định thị trường tài chính, tiền tệ, kinh tế vĩ mô trong bối cảnh nhiều khó khăn, thách thức. NHNN luôn khẳng định điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá của Việt Nam nhằm hướng tới mục tiêu xuyên suốt là góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an toàn hoạt động hệ thống các TCTD. Thời gian qua, NHNN đã và đang nỗ lực từng bước hiện đại hóa và minh bạch khung khổ chính sách tiền tệ và điều hành tỷ giá. Đồng thời, NHNN điều hành tỷ giá chủ động, linh hoạt, phù hợp với trình độ phát triển của thị trường ngoại tệ và các yếu tố kinh tế; không sử dụng chính sách tỷ giá nhằm tạo lợi thế cạnh tranh thương mại không công bằng; đảm bảo hoạt động ổn định, thông suốt của thị trường ngoại tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.

Thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá theo định hướng nêu trên nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an toàn hoạt động hệ thống các TCTD; đồng thời, sẽ tiếp tục tích cực phối hợp với các Bộ, ngành để trao đổi, làm việc về các vấn đề mà phía Hoa Kỳ quan tâm trên tinh thần hợp tác, thiện chí.

Ngân hàng tìm cách đẩy vốn ra nền kinh tế

Cuối tuần qua, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã giảm thêm lãi suất điều hành lần thứ 4 liên tiếp. Theo đó, một loạt lãi suất điều hành giảm thêm 0,5%, riêng trần lãi suất huy động giảm 0,25% về 4,75%/năm, đã về gần mốc trước dịch Covid-19.

Động thái của NHNN diễn ra trong bối cảnh hai sự kiện lớn diễn ra tuần qua. Thứ nhất, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) quyết định tạm dừng tăng lãi suất trong phiên họp chính sách tháng 6 sau chuỗi tăng 10 lần liên tiếp. Thứ hai, trong nỗ lực thúc đẩy phục hồi kinh tế, Ngân hàng trung ương Trung Quốc hạ lãi suất cho vay ngắn hạn lần đầu tiên sau 10 tháng. 

Ngay cuối tuần qua, một loạt ngân hàng đã công bố giảm thêm lãi suất huy động. Làn sóng giảm lãi suất huy động dự kiến còn lan rộng từ đầu tuần này. Trên thị trường liên ngân hàng, đóng cửa phiên giao dịch cuối tuần qua, lãi suất giao dịch tất cả kỳ hạn đều giảm mạnh. Theo đó, lãi suất cho vay qua đêm chỉ còn 1,01%, lãi suất cho vay 1 tuần chỉ còn 1,37%, kỳ hạn 2 tuần còn 1,86%.

Theo phân tích của các chuyên gia, NHNN giảm lãi suất điều hành thời điểm này là hợp lý.

Ông Đỗ Bảo Ngọc, Phó tổng giám đốc CTCK Kiến thiết Việt Nam (VNCS) cho rằng, Fed tạm dừng tăng lãi suất trong ngắn hạn giúp tỷ giá ổn định, NHNN dễ dàng hơn trong việc đưa ra quyết định giảm thêm lãi suất điều hành.

Tuy vậy, cùng với việc giảm lãi suất, các chuyên gia kỳ vọng, NHNN sẽ có thêm giải pháp tăng cung tiền ra hệ thống, bởi cung tiền nửa đầu năm nay vẫn tăng rất chậm.

Đến hết tháng 5/2023, tín dụng toàn hệ thống tăng 3,17%, nhiều ngân hàng mới chỉ sử dụng hết gần một nửa room tín dụng được cấp. Tuy vậy, bên cạnh đó, vẫn có một số ngân hàng đã sử dụng hết hoặc gần hết room tín dụng, nhưng theo nguồn tin của Báo Đầu tư, các ngân hàng này vẫn chưa được NHNN cấp thêm room tín dụng dù đã đề xuất nhiều tháng nay.

TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia ngân hàng cho rằng, trong tình hình hiện nay, với những ngân hàng có khả năng tăng trưởng tín dụng, NHNN nên tạo điều kiện cho phép tăng trên cơ sở kiểm soát các chỉ số an toàn rủi ro, thay vì đợi đến gần cuối năm mới bổ sung room như các năm trước.

Khả năng, NHNN sẽ sớm cấp toàn bộ room tín dụng cho các ngân hàng thương mại. Tuần qua, Thường trực Chính phủ đã yêu cầu NHNN phải có ngay biện pháp khắc phục hiệu quả việc tăng trưởng tín dụng thấp như 5 tháng vừa qua. Đồng thời, phải phân bổ hết hạn mức tín dụng và thông báo công khai ngay trong tháng 6/2023 để các tổ chức tín dụng chủ động mở rộng tín dụng từ nay đến hết năm 2023.    

Ông Nguyễn Thanh Tùng, Tổng giám đốc Vietcombank cho biết, Vietcombank đã thực hiện 2 chương trình giảm lãi suất cho vay với khách hàng hiện hữu, giúp hơn 110.000 khách hàng được giảm lãi suất. Hai chương trình này tác động tới hơn 600.000 tỷ đồng dư nợ, khiến Vietcombank giảm lợi nhuận hơn 1.000 tỷ đồng. Ông Tùng cho rằng, việc NHNN giảm lãi suất điều hành là cơ sở để các ngân hàng thương mại giảm lãi suất cho vay và cam kết thời gian tới sẽ tiếp tục triển khai các chương trình giảm lãi suất để hỗ trợ khách hàng cá nhân, doanh nghiệp.

Được biết, tại Vietcombank, dư nợ tín dụng mới đóng góp khoảng 40% tăng trưởng tín dụng của ngân hàng, chứng tỏ nguồn vốn mới vẫn tiếp tục được bơm vào nền kinh tế. Mặc dù tín dụng nửa đầu năm nay không tăng mạnh như cùng kỳ năm ngoái, song lãnh đạo Vietcombank kỳ vọng tình hình sẽ cải thiện nửa cuối năm.

“Vietcombank đang tích cực làm đầu mối thu xếp các Dự án lớn trọng điểm quốc gia, trong đó những khoản thu xếp vốn lớn nhất từ trước đến nay”, ông Tùng cho biết.

Trong khi đó, tín dụng tại Agribank cũng khởi sắc từ đầu tháng 5/2023. Bà Nguyễn Thị Phượng, Phó tổng giám đốc Agribank cho hay, so với giai đoạn trước, cán bộ tín dụng Agribank có sự “linh hoạt” nhất định để dòng vốn có thể đẩy nhanh hơn ra nền kinh tế.

Theo TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế, việc NHNN giảm lãi suất điều hành ngoài tác dụng hỗ trợ ngân hàng (giảm chi phí vốn) và doanh nghiệp (giảm lãi suất cho vay), còn cho thấy dấu hiệu ngày càng rõ ràng từ sự thay đổi chính sách tiền tệ từ thận trọng sang nới lỏng. Điều này sẽ làm giảm tâm lỳ kỳ vọng lãi suất cao của người dân, kích thích dòng tiền tiết kiệm chuyển sang đầu tưtiêu dùng

BIDV cũng công bố chương trình giảm lãi suất cho vay với khách hàng hiện hữu, một số ngân hàng TMCP tư nhân cũng đã vào cuộc giảm lãi vay với một số nhóm đối tượng khách hàng. Điều này đã có tác động tích cực nhất định tới nền kinh tế. Theo các chuyên gia, cuối quý IV/2023, giá vốn đầu vào của các ngân hàng mới đủ thời gian để giảm, khi đó lãi suất cho vay mới có thể hạ nhiệt mạnh hơn, kích cầu tín dụng và tiêu dùng tăng trở lại.

Trong văn bản chỉ đạo mới đây, Thường trực Chính phủ yêu cầu NHNN có giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, người dân phục hồi sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng. Theo đó, Chính phủ chỉ đạo ngành ngân cắt giảm thủ tục hành chính, nâng cao hơn nữa khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp và người dân. Khẩn trương rà soát, xem xét, sửa đổi phù hợp một số tiêu chí, điều kiện, hướng dẫn cho vay theo hướng tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Có giải pháp tháo gỡ khó khăn về tín dụng cho các doanh nghiệp, dự án bất động sản, nhất là đối với các dự án khả thi, hiệu quả, các doanh nghiệp có năng lực...

Đồng thời, Chính phủ chỉ đạo kêu gọi các ngân hàng thương mại đề cao trách nhiệm xã hội, đạo đức kinh doanh, phát huy tinh thần đồng hành, chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp và người dân.

Standard Chartered: Lãi suất điều hành hạ thêm 0,5% vào quý tới

Standard Chartered dự báo GDP quý II/2023 của Việt Nam tăng chậm lại, lãi suất điều hành sẽ giảm về mức những năm xảy ra đại dịch do Ngân hàng Nhà nước tập trung nhiều hơn vào tăng trưởng.

Trong báo cáo cập nhật kinh tế mới nhất về Việt Nam, ngân hàng Standard Chartered dự báo tăng trưởng GDP quý II/2023 của Việt Nam sẽ chậm lại. Kết quả này có thể sẽ ảnh hưởng tới dự báo tăng trưởng 6,5% cho năm 2023 được ngân hàng đưa trước đó; tuy nhiên tăng trưởng GDP được dự báo sẽ phục hồi trong nửa cuối năm nay.

Theo Standard Chartered, dữ liệu vĩ mô tháng 6 có thể tiếp tục cải thiện nhẹ so với tháng 5, nhưng vẫn tương đối yếu do hoạt động thương mại tiếp tục suy giảm dẫn đến hoạt động sản xuất và kinh tế chậm lại.

Vấn đề mất điện gần đây đã ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế. Xuất khẩu được dự đoán sẽ giảm 5,2% so với cùng kỳ trong tháng 6, nhập khẩu giảm 17,0% và tăng trưởng sản xuất công nghiệp tăng lên 1,2%. Thặng dư thương mại có khả năng tăng lên 4,1 tỷ đô la Mỹ từ 2,2 tỷ đô la Mỹ trong tháng Năm. Lạm phát có thể tiếp tục giảm xuống 2,2% so với cùng kỳ; Ngân hàng nhận thấy doanh số bán lẻ vẫn tăng trưởng mạnh ở mức 12,2% so với cùng kỳ. Vốn FDI giải ngân trong 5 tháng đầu năm 2023 giảm 0,8% so với cùng kỳ xuống 7,6 tỷ USD; Vốn FDI cam kết giảm 7,3% xuống 10,9 tỷ USD.

Standard Chartered dự báo Ngân hàng Nhà nước sẽ cắt giảm lãi suất tái cấp vốn chuẩn thêm 50 điểm cơ bản xuống còn 4,0% trong Quý 3 (bằng mức lãi suất trong những năm xảy ra đại dịch) và sẽ giữ nguyên cho đến cuối năm 2025. Vào ngày 16/6/2023, Ngân hàng Nhà nước đã cắt giảm lãi suất từ 5,0% xuống 4,5% sau hai lần cắt giảm 50 điểm cơ bản trước đó, vào tháng 3 và tháng 5.

Ông Tim Leelahaphan, Chuyên gia kinh tế tại Thái Lan và Việt Nam, Standard Chartered chia sẻ: “Chúng tôi cho rằng, Ngân hàng Nhà nước đang tập trung nhiều hơn vào tăng trưởng khi áp lực giá cả trong nền kinh tế giảm bớt. Mặc dù Ngân hàng Nhà nước đang đảo ngược chính sách thắt chặt tiền tệ được thực hiện vào năm ngoái, những đợt cắt giảm lãi suất tiếp theo sẽ không vượt quá 50 điểm cơ bản do những lo ngại về rủi ro lạm phát và bất ổn tài chính vẫn còn hiện hữu.” 

Doanh nghiệp xoay xở chi gần 87.000 tỷ mua lại trái phiếu trước hạn 

Báo cáo của Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA) cho biết, tính đến ngày công bố thông tin 16/6/2023, chỉ có 2 đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ được ghi nhận trong tháng 6 với tổng giá trị 600 tỷ đồng.

Lũy kế từ đầu năm đến nay, tổng giá trị phát hành trái phiếu doanh nghiệp được ghi nhận là 35.213 tỷ đồng, bao gồm 7 đợt phát hành công chúng trị giá 5.521 tỷ đồng (chiếm 16% tổng giá trị phát hành) và 24 đợt phát hành riêng lẻ trị giá 29.692 tỷ đồng (chiếm 84% tổng số).

Trong khi phát hành trái phiếu mới khó khăn thì doanh nghiệp vẫn phải tăng mua lại trái phiếu. Từ đầu tháng 6 tới ngày công bố thông tin 16/6/2023, các doanh nghiệp đã thực hiện mua lại 8.868 tỷ đồng trái phiếu.

Tổng giá trị trái phiếu đã được các doanh nghiệp mua lại trước hạn lũy kế từ đầu năm đến nay đạt 86.720 tỷ đồng (tăng 42% so với cùng kỳ năm 2022).

Áp lực đáo hạn trái phiếu của doanh nghiệp từ nay đến cuối năm vẫn rất lớn. Tổng giá trị trái phiếu sẽ đến hạn từ nay đến cuối năm 2023 là 182.445 tỷ đồng. Phần lớn giá trị trái phiếu sắp đáo hạn thuộc nhóm bất động sản với 93.719 tỷ đồng, chiếm 51,4%, theo sau là nhóm ngân hàng với 31.161 tỷ đồng, chiếm 17,1%.  

Trước đó, theo báo cáo của Công ty Chứng khoán VNDirect, trong tháng 6/2023 có khoảng hơn 35.500 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ đáo hạn, tăng gấp đôi so với tháng 5 và là tháng đỉnh điểm giá trị đáo hạn cao nhất so với các tháng còn lại trong năm 2023.  

Trong thời gian qua, để hỗ trợ thị trường và doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn, Chính phủ và các cơ quan quản lý đã có nhiều quyết định quan trọng để ổn định thị trường trái phiếu doanh nghiệp, đưa thị trường hoạt động đúng khuôn khổ pháp luật, góp sức cho nền kinh tế và khơi dậy niềm tin của người dân để thị trường phát triển bền vững.

Đặc biệt, Nghị định 08/2023/NĐ-CP đã cho phép doanh nghiệp đàm phán với nhà đầu tư để thanh toán trái phiếu bằng tài sản hoặc thay đổi điều kiện, điều khoản, gia hạn trái phiếu đã phát hành trước đây (thời gian gia hạn tối đa không quá 2 năm); ngưng thực hiện đến hết ngày 31/12/2023 đối với quy định về xác định tư cách nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, thời gian phân phối trái phiếu và xếp hạng tín nhiệm bắt buộc. Nghị định góp phần giúp doanh nghiệp có thêm thời gian xử lý các khó khăn trước mắt về trái phiếu, góp phần giảm áp lực thanh khoản và dần khôi phục niềm tin cho thị trường.

Vào cuối tháng 5/2023, dư nợ trái phiếu doanh nghiệp vào khoảng 1,1 triệu tỷ đồng, chiếm 11,6% GDP năm 2022.

Tổng cục Thuế đề nghị ngân hàng cung cấp thông tin để thanh tra, cưỡng chế thuế

Tổng cục Thuế vừa có văn bản chỉ đạo Cục Thuế doanh nghiệp lớn; cục thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phối hợp với ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán để tăng cường quản lý thuế.

Văn bản nêu rõ, để kịp thời triển khai đồng bộ các giải pháp quản lý thuế, Tổng cục Thuế đề nghị ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác cung cấp thông tin giao dịch qua tài khoản, số dư tài khoản, số liệu giao dịch theo đề nghị của cục trưởng cục thuế để phục vụ cho mục đích thanh tra, kiểm tra xác định nghĩa vụ thuế phải nộp và thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế theo quy định của pháp luật về thuế, trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu bằng văn bản của cơ quan thuế.

Trường hợp ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác không cung cấp dữ liệu theo yêu cầu của cơ quan quản lý thuế sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 19 Nghị định số 125/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về thuế, hóa đơn.

Các cục thuế khi có yêu cầu cung cấp thông tin thì gửi văn bản về hội sở chính của ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác để triển khai thực hiện. Nội dung yêu cầu cần đầy đủ, chi tiết các thông tin về định danh, nội dung để ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác thực hiện.

Đối với các nội dung phức tạp, quan trọng, có thể thực hiện tổ chức họp giữa cục thuế và ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng khác; hoặc phối hợp, làm việc với cục thuế quản lý trực tiếp ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng khác đó theo quy định của pháp luật.

Các cục thuế quản lý trực tiếp ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác có trách nhiệm phối hợp với các cục thuế khi có yêu cầu.

Văn bản của Tổng cục Thuế cũng yêu cầu, các cục thuế có trách nhiệm bảo mật thông tin, sử dụng thông tin đúng mục đích và hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự an toàn của thông tin theo quy định của Luật Quản lý thuế và quy định của pháp luật có liên quan.

Về việc kê khai, khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế phải nộp và theo dõi số tiền chuyển cho các nhà cung cấp ở nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số với tổ chức, cá nhân ở Việt Nam (gọi là nhà cung cấp nước ngoài): Tổng cục Thuế đề nghị ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng khác và các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán thực hiện việc kê khai, khấu trừ, nộp thay và theo dõi số tiền chuyển cho các nhà cung cấp ở nước ngoài thực hiện theo đúng các quy định tại Điều 81 Thông tư số 80/2021/TT-BTC ngày 29/9/2021 của Bộ tài chính.

Trường hợp ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng khác và các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán không thực hiện thì sẽ bị xử lý theo quy định tại khoản 1, Điều 144 Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 ngày 13/6/2019.

Doanh nghiệp SME dai dẳng thiếu vốn: Liệu có phải ngân hàng quá khắt khe

Thiếu vốn là câu chuyện trường kỳ của doanh nghiệp nhỏ vừa và vừa (SME). Liệu có phải ngân hàng quá khắt khe trong cho vay, khiến doanh nghiệp SME không thể tiếp cận vốn?

Trong lúc ngành ngân hàng than thở ế vốn, tín dụng không thể bơm ra nền kinh tế thì nhiều doanh nghiệp SME vẫn phản ánh thiếu vốn song không thể vay vì hồ sơ thủ tục của ngân hàng quá chặt chẽ. Tuy vậy, phía ngân hàng lại cho rằng, dù có thừa vốn, ngân hàng cũng không thể hạ chuẩn tín dụng, cho vay vô tội vạ.

Bà Trịnh Thị Ngân - Trưởng Ban cố vấn Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa TP. Hà Nội thừa nhận, hiện nay là suy thoái kinh tế, thị trường không có nhu cầu, doanh nghiệp đóng cửa nên việc sử dụng vốn cũng không có. Theo bà Ngân, việc doanh nghiệp SME tiếp cận vốn khó khăn là đúng, song chỉ với các doanh nghiệp phương án sản xuất không rõ ràng, cụ thể. 

"Chúng tôi nghe doanh nghiệp kêu rất nhiều về ngân hàng "làm khó", song theo tôi bản chất không phải như vậy. Ngân hàng huy động vốn để cho vay, việc khó hay không là do doanh nghiệp chứ không phải do ngân hàng. Nút thắt đầu tiên là ở phía doanh nghiệp. Tôi biết có câu chuyện rất thật: Có chủ doanh nghiệp đi vay vốn ngân hàng 10 tỷ, vợ mang luôn đi mua ô tô. Chính vì vậy nên ngân hàng mới không cho vay mù mờ như vậy nữa mà phải giải ngân theo đơn hàng, theo tiến độ. Hiện nay hóa đơn điện tử đã được áp dụng, ngân hàng giám sát dòng tiền thật, không có chuyện vay vốn theo “hóa đơn ma” nữa. Cho nên, muốn tiếp cận vay vốn, phải gỡ ngay vướng mắc đầu tiên từ doanh nghiệp. Dĩ nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng xấu. Phía ngân hàng cũng phải gỡ thủ tục hành chính, có cái nhìn khách quan hơn, đồng hành cũng doanh nghiệp, xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp…”, bà Ngân nhận định.

Hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp lựa chọn gắn bó chung thủy với một ngân hàng, qua đó được ngân hàng xếp hạng, nhờ vậy sẽ thuận lợi hơn trong tiếp cận vốn. Tuy vậy, khi doanh nghiệp gặp khó khăn, ngân hàng cũng cần có sự hỗ trợ.

Các chuyên gia kinh tế cũng cho rằng, ngành ngân hàng đã rất nỗ lực khi tăng tỷ trọng cho vay doanh nghiệp SME từ mức 5-10% lên mức 19% tổng dư nợ nền kinh tế hiện nay.  

Các doanh nghiệp nhỏ và vừa phải cạnh tranh rất lớn với doanh nghiệp khác như doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cho vay dân cư, cho vay tiêu dùng. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng có chuẩn mực cho vay rất khắt khe và ngày càng chặt chẽ hơn. Trong đó, quan trọng nhất nếu muốn tiếp cận vốn là doanh nghiệp phải có phương án sản xuất kinh doanh rõ ràng, quản trị chặt chẽ.  Hiện nay, khả năng quản trị của doanh nghiệp SME còn khá yếu, quản lý sổ sách kế toán chưa minh bạch…  

Theo ông Trần Anh Quý, Trưởng phòng Tín dụng chính sách Nhà nước, Vụ Tín dụng các ngành Kinh tế, Ngân hàng Nhà nước, việc tiếp cận vốn của doanh nghiệp SME còn nhiều nút thắt. Ngân hàng Nhà nước nhận thức rõ ràng và phân loại ra 2 loại khó khăn

Thứ nhất là khó khăn về vấn đề tài chính, áp lực trả nợ ngân hàng. Về vấn đề này, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện giải pháp cơ cấu thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi và đặc biệt là không chuyển nhóm nợ, giữ nguyên nhóm nợ, là giải pháp giữ minh bạch về tài chính cho doanh nghiệp.

Khó khăn thứ hai là nhiều doanh nghiệp SME có phương án kinh doanh rất yếu, thậm chí k hông có. Ngân hàng vì thế không có cơ sở để cho vay mới. Tức là điều kiện cơ bản để vay vốn chưa có. Ngân hàng không thể cho khách hàng cầm tiền thích làm gì thì làm được.

Trong điều kiện quản lý khoản vay cũng như điều kiện quản lý minh bạch rất cao, nhất là khi ngân hàng đang áp dụng chuyển đổi số và có nhiều quy định quản trị rủi ro, quản trị điều hành theo tiêu chuẩn quốc tế Base II, các ngân hàng không dám cho vay mạo hiểm.  

“Doanh nghiệp phải nhìn nhận lại quá trình sản xuất kinh doanh của mình, rộng hơn là thị trường, phương án kinh doanh khả thi không, đem lại khả năng phục hồi không. Nếu tốt, tôi cam đoan ngân hàng đều rất sẵn sàng tài trợ đầy đủ nhu cầu vốn cho doanh nghiệp thực hiện phương án sản xuất kinh doanh ấy”, ông Quý khẳng định.

Tin liên quan
Tin khác