Ngày 10/9, Tòa án Nhân dân TP. Hà Nội đã đưa ra xét xử sơ thẩm đối với Võ Sỹ Long (sinh năm 1976, quê Nghệ An), xưng là Phó giám đốc Công ty Tuấn Phương.
Theo hồ sơ vụ án, Võ Sỹ Long là lao động tự do, không có vai trò, chức năng, nhiệm vụ gì tại Bộ Quốc phòng. Bị cáo cũng không có mối quan hệ với người có thẩm quyền quyết định việc lựa chọn nhà thầu thi công các công trình xây dựng thuộc các dự án do Bộ Quốc phòng quản lý.
Tuy nhiên, Long vẫn “nổ” rằng bản thân có quan hệ với lãnh đạo Bộ Quốc phòng, có thể xin được trúng thầu thi công các dự án của Bộ Quốc phòng để lừa đảo chiếm đoạt hơn 4 tỷ đồng của giám đốc 3 doanh nghiệp.
Võ Sỹ Long bị tuyên phạt 16 năm tù về hành vi lừa chạy dự án cho 3 doanh nghiệp, chiếm đoạt 4,5 tỷ đồng. |
Năm 2014, thông qua các mối quan hệ xã hội, Long quen bà Lê Thị N., Phó giám đốc Công ty TNHH xây dựng Trí Việt (Công ty Trí Việt), sau đó cho xem các tài liệu liên quan đến dự án thi công và giá trị xây dựng các hạng mục công trình của Nhà máy Z113 tại tỉnh Tuyên Quang, do Công ty Z113 - Bộ Quốc Phòng làm chủ đầu tư.
Long nói có thể “xin” giúp doanh nghiệp của bà N. được thi công dự án này trong vòng 1 tháng, chi phí hết 1,5 tỷ đồng. Bà N. sau đó rủ ông Nguyễn Đức S., Giám đốc Công ty TNHH Xây dựng và thương mại Quỳnh Phương; ông Phạm Hồng P., và một số người khác cùng tham gia.
Sau khi xem tài liệu các hạng mục, giá trị xây dựng để tính dự toán, bóc tách khối lượng, thấy có khả năng làm được nên tháng 10/2015, nhóm bà N. đã đồng ý và đưa trước cho Long 770 triệu đồng, trong đó bà N. góp 700 triệu đồng; ông P. góp 70 triệu đồng.
Tuy nhiên, hết thời hạn theo như cam kết nhưng vẫn không thực hiện nên các bị hại đã làm đơn tố giác hành vi của Võ Sỹ Long.
Cùng thủ đoạn trên, tháng 11/2015, Long tiếp tục cho ông S. xem các tài liệu liên quan đến việc thi công xây dựng Nhà công vụ Dự án Nhà máy Z113 Tuyên Quang; Trạm dừng chân một bên tuyến đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng và một số dự án khác do Bộ Quốc Phòng quản lý.
Do tin tưởng nên ông S. đã nhiều lần đưa tổng cộng 3,8 tỷ đồng để nhờ Long xin dự án, với cam kết sau 1 tháng sẽ thực hiện xong. Các lần giao tiền, Long cũng viết giấy cam kết xin cho ông S. các dự án trên.
Sau khi cầm tiền, Long dẫn ông S. đến trụ sở Bộ Quốc phòng, nhưng ông S. phải chờ ở ngoài theo yêu cầu, còn Long đi vào trong gặp ai, xin dự án thế nào thì ông S. không nắm được.
Sau thời hạn cam kết, Long không xin được dự án như đã hứa, cũng không trả lại số tiền đã nhận của ông S.
Quá trình điều tra, Long thừa nhận hành vi của mình, đồng thời cho rằng quá trình đi “xin” dự án, đã cùng ông S. mang tổng số tiền 3,8 tỷ đồng đi “chi phí” các nơi, nên không có nghĩa vụ hoàn trả. Tuy nhiên, Long không cung cấp được căn cứ về lời khai này.
Trong khi đó, ông S. thấy Long đang phải chấp hành bản án 20 năm tù, không có khả năng trả lại tiền nên không yêu cầu bị cáo phải khắc phục toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt.
Sau khi xem xét hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo, các bị hại và người liên quan tại tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy cáo trạng truy tố bị cáo Võ Sỹ Long là đúng người, đúng tội, nên đã tuyên phạt mức án 16 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Ngoài ra, bị cáo này đang phải chấp hành bản án tù giam 20 năm, cũng về hành vi lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, do đó tổng hợp hình phạt là 30 năm tù.