Hiệp hội Ngân hàng kêu gọi đồng thuận lãi suất tiền gửi tối đa không quá 9,5%/năm
Tại cuộc họp bàn thống nhất về các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp phát triển sản xuất - kinh doanh sáng nay (15/12), Hiệp hội ngân hàng kêu gọi các ngân hàng đồng thuận lãi suất huy động tại mọi kỳ hạn không quá 9,5%/năm.
Mặc dù tỷ giá đã bớt căng thẳng, thị trường tiền tệ, tỷ giá ổn định trở lại song mặt bằng lãi suất huy động ở thị trường 1 vẫn rất cao, phổ biến từ 9 - 10% đối với kỳ hạn trên 12 tháng, trong đó một số ngân hàng có mức lãi suất lên tới 11,5 – 12%/năm. Thậm chí, có nhân viên ngân hàng còn chào mời lãi suất “ngầm”, bao gồm cả khuyến mãi cho các khoản tiền gửi lớn lên tới 13%/năm.
Theo Hiệp hội ngân hàng Việt Nam, một số NHTM điều chỉnh tăng mạnh lãi suất huy động gây nên tình trạng cạnh tranh huy động gay gắt, tạo tâm lý bất ổn đối với cả người gửi tiền và người đi vay.
Trước tình hình đó, ngày 07/12/2022, Hiệp hội ngân hàng đã họp với các Ngân hàng hội viên để kêu gọi thống nhất áp dụng mức lãi suất huy động tại các kỳ hạn tối đa 9,5%/năm (kể cả các khoản khuyến mại cộng lãi suất) ổn định mặt bằng lãi suất huy động, đảm bảo an toàn thanh khoản hệ thống ngân hàng, đặc biệt trong những tháng cuối năm, trên cơ sở đó tiết giảm chi phí nhằm giảm lãi suất cho vay hỗ trợ doanh nghiệp.
Sau cuộc họp ngày 07/12/2022, Hiệp hội Ngân hàng đã có Công văn số 454/HHNH-PLNV ngày 09/12/2022 báo cáo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước kết quả cuộc họp và kiến nghị Thống đốc một số giải pháp hỗ trợ các NHTM liên quan đến hỗ trợ thanh khoản từ nay đến hết Tết nguyên đán 2023, đồng thời thống nhất mức lãi suất huy động tại các kỳ hạn tối đa 9,5%/năm (kể cả các khoản khuyến mại cộng lãi suất).
Mặc dù Hiệp hội ngân hàng đã kêu gọi song thực tế, mặt bằng lãi suất huy động ở thị trường 1 vẫn rất cao. Tính đến ngày 14/12/2022, lãi suất huy động kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng đa số dao động ở mức từ 6,1% - 8,3%/năm, có ngân hàng huy động lãi suất lên đến 11% - 12%/năm.
So với cuối năm 2021, nhìn chung, lãi suất huy động của hệ thống ngân hàng hiện nay đã tăng khoảng 3% – 4% ở các kỳ hạn trên 6 tháng và trên 12 tháng.
Theo các ngân hàng có nhiều nguyên nhân khiến lãi suất huy động hiện nay chưa có xu hướng giảm.
Thứ nhất, một số ngân hàng quy mô vừa và nhỏ vẫn buộc phải tăng lãi suất lên mức cao hơn mặt bằng chung của thị trường để giữ chân khách hàng (do người dân có hiện tượng thiếu niềm tin vào NHTMCP quy mô nhỏ nên có xu hướng gửi tiền đến các ngân hàng có vốn nhà nước), chứ không hẳn gặp vấn đề thanh khoản.
Thứ hai, giao dịch tín chấp trên thị trường liên ngân hàng bị hạn chế, các giao dịch hầu như đều bị yêu cầu có tài sản đảm bảo và bị áp tỷ lệ phòng vệ rủi ro quá cao so với thời điểm trước đó. Các NHTM có quy mô vừa và nhỏ buộc phải thực hiện giao dịch tiền tệ có tài sản đảm bảo như giấy tờ có giá để đáp ứng nhu cầu thanh khoản hàng ngày song khối lượng giấy tờ có giá sẵn có để phục vụ cho nhu cầu trên không nhiều.
Thứ ba, áp lực thực hiện quy định về tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn, cho vay trung dài hạn (tỷ lệ này đã bị giảm từ 37% xuống 34% vào tháng 10/2022, theo lộ trình thì tháng 10/2023 sẽ giảm tiếp tục xuống 30%) - dẫn đến các NHTM đẩy lãi suất huy động vốn trung dài hạn lên cao hơn nhằm đảm bảo tuân thủ quy định…
Bên cạnh đó, các NHTM tham gia thị trường liên ngân hàng không nắm bắt được thông tin của NHTM tham gia, do vậy không có thông tin đánh giá NH đối tác, để cân nhắc, ra quyết định cho vay/gửi tiền tại NHTM khác, dẫn dến có thời điểm một số NHTM gặp khó khăn về thanh khoản và phải nâng lãi suất huy động để đảm bảo thanh khoản.
Theo Hiệp hội ngân hàng, nhu cầu tín dụng ở mức cao trong khi hạn mức tín dụng vẫn bị kiểm soát sẽ tiếp tục gây áp lực lên lãi suất cho vay.
Sau khi Ngân hàng Nhà nước nới room tín dụng và có các giải pháp hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng, hiện đã có 16 ngân hàng đã cam kết giảm tiền lãi với số tiền khoảng 3.500 tỷ đồng, với mức lãi suất giảm từ 0,5% - 3%/năm.
Tuy nhiên, theo doanh nghiệp phản ảnh, lãi suất cho vay hiện nay vẫn còn ở mức tương đối cao: lãi suất cho vay trung bình tại các ngân hàng thường dao động từ 10 - 16%/năm (cho vay tín chấp), còn đối với vay thế chấp thì lãi suất dao động từ 10 - 14%/năm.
Trong bối cảnh ngân hàng thương mại vẫn “đua” lãi suất huy động, việc thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp giảm lãi suất cho vay theo chỉ đạo của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước là rất khó, đồng thời dẫn đến rủi ro gia tăng nợ xấu, lãi treo từ phía khách hàng.
Vì vậy, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đề nghị các ngân hàng nghiêm túc kêu gọi đồng thuận lãi suất huy động tại mọi kỳ hạn không quá 9,5%/năm (đã bao gồm các khoản khuyến mại).
Đồng thời, các tổ chức tín dụng, đặc biệt là 30 tổ chức tín dụng đã được phân bổ chỉ tiêu tín dụng bổ sung cần căn cứ khả năng, năng lực tài chính của mình, tiết giảm chi phí để giảm lãi suất cho vay theo nội dung đã cam kết với Ngân hàng Nhà nước.
Phó Thống đốc: Ngân hàng nào khó giảm lãi suất thì báo cáo để NHNN hỗ trợ
Lãnh đạo NHNN đề nghị các ngân hàng giảm lãi suất huy động và cho vay để hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế. Ngân hàng nào khó khăn thì báo cáo để NHNN có giải pháp hỗ trợ.
Tại Hội nghị bàn thống nhất các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh sáng15/12/2022, Hiệp hội ngân hàng kêu gọi các ngân hàng đồng thuận lãi suất huy động tại mọi kỳ hạn không quá 9,5%/năm.
Phát biểu tại Hội nghị này, Phó Thống đốc thường trực Đào Minh Tú đã đề nghị các ngân hàng tính toán, giảm lãi suất huy động, giảm lãi suất cho vay theo quy mô và tiềm lực để hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế.
''Tinh thần là tiết giảm chi phí, giảm lãi suất hỗ trợ doanh nghiệp là chỉ đạo của Thủ tướng và Ngân hàng Nhà nước. Còn ngân hàng nào khó khăn không làm được thì báo cáo NHNN để chúng tôi có biện pháp hỗ trợ'', Phó Thống đốc nhấn mạnh.
Các biện pháp hỗ trợ ở đây, theo lãnh đạo NHNN, là hỗ trợ thông qua các công cụ như OMO, cho vay tái cấp vốn, Swap ngoại tệ.
Theo Phó Thống đốc, giảm lãi suất không thể để các ngân hàng rơi vào tình trạng suy yếu về mặt năng lực tài chính, nhưng ngược lại, không thể để lãi suất tăng đến mức gây ra những khó khăn cho doanh nghiệp và người dân… Giảm lãi suất quan trọng nhất là cắt giảm chi phí hoạt động và lợi nhuận và cổ đông cũng phải chia sẻ. Tránh việc ngân hàng báo lãi cao trong khi nền kinh tế gặp khó khăn.
Tại Hội nghị sáng nay, Hiệp hội Ngân hàng cũng cho biết, hiện đã có 16 ngân hàng đã cam kết giảm tiền lãi với số tiền khoảng 3.500 tỷ đồng, với mức lãi suất giảm từ 0,5% - 3%/năm .
Trao đổi với báo chí, ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng cho biết, hiện đã có 100% hội viên của Hiệp hội đồng thuận ở cả hai nội dung.
Thứ nhất, đồng thuận huy động lãi suất tiền gửi cao nhất chỉ ở mức cao nhất 9,5% trên tất cả các kỳ hạn, trong đó không được thưởng liên quan đến lãi suất. Điều này sẽ ngăn chặn tình trạng cạnh tranh lãi suất huy động giữa cá tổ chức tín dụng.
Thứ hai, đồng thuận giảm lãi suất cho vay tối đa 0,5-2% tùy theo khả năng tài chính của mỗi đơn vị.
Tại cuộc họp sáng nay, một số tổ chức tín dụng đã khẳng định không để thiếu vốn cho doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh đủ điều kiện, kể cả cá nhân.
Liên quan đến thanh khoản hiện nay, ông Hùng khẳng định, thanh khoản tổng thể toàn hệ thống không thiếu. Tuy vậy, vẫn còn “chỗ này, chỗ kia thiếu thanh khoản và đôi lúc sự tin tưởng lẫn nhau giữa các TCTD không được như trước, dẫn đến thị trường liên ngân hàng có lúc bị chao đảo, thậm chí hoạt động không được thông suốt như trước.
“Có lúc, có nơi, tình trạng thiếu thanh khoản nhất thời đã xảy ra. Tuy nhiên, NHNN đã nhận thấy và kịp thời điều chỉnh chính sách phù hợp như cho vay qua thị trường mở, thị trường liên ngân hàng. Hoạt động bơm vốn kịp thời, hài hòa của NHNN đã đảm bảo thanh khoản hệ thống ổn định. Dù vậy, chúng tôi cũng cảnh báo các tổ chức tín dụng từ nay đến cuối năm phải tập trung củng cố thanh khoản và mong muốn NHNN tiếp tục hỗ trợ thêm về thanh khoản cho hệ thống thông qua các công cụ khác nhau, khi đó ngân hàng mới có nhiều nguồn lực để hỗ trợ vốn cho nền kinh tế”, ông Hùng nói.
Nhằm đảm bảo các ngân hàng thực hiện nghiêm túc cam kết đồng thuận, Hiệp hội cho biết sẽ phối hợp các cơ quan chức năng của NHNN theo dõi, đánh giá tổng kết quá trình tổ chức thực hiện đối với ngân hàng cam kết. Từ kết quả thực hiện cam kết này để đề xuất chính sách hỗ trợ thỏa đáng cho các ngân hàng ,trên cơ sở khuyến khích các đơn vị thực hiện nghiêm túc đồng thuận giảm lãi suất cũng như thực hiện các chỉ đạo của Chính phủ, NHNN.
Mới đây, NHNN đã có văn bản yêu cầu các ngân hàng phải báo cáo lãi suất tiền gửi và cho vay của các giao dịch phát sinh mới trong kỳ báo cáo hàng tuần. Mục đích của yêu cầu này, theo Ngân hàng Nhà nước, là để phục vụ việc quản lý hoạt động ngân hàng và điều hành chính sách tiền tệ . Nếu ngân hàng thương mại có quyết định thay đổi về mức lãi suất trong kỳ báo cáo tuần thì phải gửi quyết định điều chỉnh lãi suất cho Ngân hàng Nhà nước.
Muốn tăng, giảm lãi suất phải báo cáo Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước vừa có văn bản 8728/NHNN yêu cầu ngân hàng phải báo cáo lãi suất tiền gửi và cho vay của giao dịch phát sinh mới trong kỳ báo cáo hàng tuần cho Ngân hàng Nhà nước.
Ngân hàng Nhà nước cho biết mục đích là để phục vụ việc quản lý hoạt động ngân hàng và điều hành chính sách tiền tệ.
Theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng phải thực hiện báo cáo lãi suất định kỳ hàng tuần và phải gửi trước 11h ngày thứ hai của tuần tiếp theo cho Vụ Chính sách tiền tệ, thuộc Ngân hàng Nhà nước.
Trường hợp ngân hàng có quyết định thay đổi về mức lãi suất trong kỳ báo cáo tuần thì phải gửi quyết định điều chỉnh lãi suất cho
Ngân hàng Nhà nước.
Theo Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, TS, Nguyễn Quốc Hùng, trong bối cảnh hiện nay, nhằm tiếp tục ổn định thị trường tiền tệ, các ngân hàng cần đồng thuận giữ mặt bằng lãi suất ổn định để đảm bảo an toàn hệ thống và hỗ trợ giảm lãi suất cho vay doanh nghiệp, người dân cũng như hỗ trợ nhau nguồn lực để thanh khoản hệ thống thông suốt.
Bên cạnh đó, các ngân hàng cần trích lập dự phòng rủi ro đầy đủ, đẩy mạnh truyền thông để dư luận hiểu và chia sẻ hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đề xuất, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng qua tăng cường các công cụ thị trường mở (OMO), ưu tiên đáp ứng tối đa nhu cầu vốn của các ngân hàng qua kênh này.
Giải pháp này kỳ vọng làm giảm áp lực dự phòng thanh khoản cao của ngân hàng, góp phần làm giảm lãi suất giao dịch liên ngân hàng cũng như giảm lãi suất huy động từ khách hàng.
Thế nhưng, sau một thời gian đua lãi suất, mặt bằng lãi suất tiền gửi vẫn hạ nhiệt, nhất là khi Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) vừa tăng thêm 0,5% lãi suất trong ngày 14/12 và Ngân hàng Trung ương Mỹ cho biết, đến năm 2024 mới bắt đầu nới lỏng chính sách tiền tệ.
Vì thế, nhiều ngân hàng vẫn phản ánh có tình trạng ngân hàng niêm yết lãi suất huy động thấp hơn lãi suất huy động thực tế.
Hiện có ngân hàng đã chào mức lãi suất huy động lên gần 13%/năm cho kỳ hạn từ 18 tháng. Còn nếu gửi từ 13 tháng lãi suất lên đến 12,5%/năm.
Mức lãi suất tiết kiệm cao nhất tại nhiều ngân hàng khảo sát vào đầu tháng 12 đã tăng lên trên 10-12%/năm.Trong thời gian gần đây, nhiều ngân hàng cũng thông báo điều chỉnh lãi suất huy động như NCB, OCB, Techcombank, Bac A Bank, SHB,...
Tại Ngân hàng Quốc dân (NCB),mức lãi suất huy động cao nhất tại ngân hàng đã lên tới 10,1%/năm tại các kỳ hạn từ 13 tháng trở lên với hình thức gửi online. Chương trình chỉ áp dụng cho các khách hàng lần đầu tiên gửi tiết kiệm tại NCB.
Với các khách hàng thông thường, mức lãi suất online cao nhất được áp dụng là 9,9%/năm với các kỳ hạn dài 13-60 tháng. Tại các kỳ hạn ngắn dưới 6 tháng, NCB áp dụng mức lãi suất kịch trần 6%/năm. Với tiết kiệm truyền thống, ngân hàng áp dụng mức lãi suất 9,7%/năm tại các kỳ hạn từ 13 tháng trở lên.
Một ngân hàng khác cũng có mức lãi suất tiết kiệm sau áp dụng khuyến mãi trên 10% là OCB. Cụ thể, đối với hình thức gửi tiết kiệm online, mức lãi suất cao nhất ngân hàng áp dụng là 9,3%/năm tại các kỳ hạn từ 12 tháng trở lên.
Tại SHB, khách hàng cá nhân đều được cộng thêm lãi suất khi tửi tiền tiết kiệm. Chương trình kéo dài đến hết 28/2/2023. Cụ thể, khách hàng cá nhân sẽ nhận được quà tặng có giá trị tương đương lãi suất 0,58%/năm khi gửi tiết kiệm, hợp đồng tiền gửi từ 10 triệu đồng tại quầy và được cộng ngay lãi suất ưu đãi 0,58%/năm khi gửi online đối với các sổ tiết kiệm/hợp đồng tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên.
Khách hàng gửi tiết kiệm online sẽ nhận được mức lãi suất 9,1%/năm đối với các kỳ hạn từ 12 tháng trở lên, đây cũng là mức lãi suất cao nhất mà khách hàng gửi tiền nhận được tại thời điểm hiện tại...
Ngân hàng Bản Việt vừa điều chỉnh lãi suất tiền gửi ở một số kỳ hạn, theo đó mức điều chỉnh tăng từ 0,8% - 1,1% theo từng kỳ hạn gửi. Đây là lần điều chỉnh thứ ba kể từ ngày 23/9/2022.
Cụ thể, Bản Việt tăng lãi suất tiền gửi kỳ hạn 6-12 tháng từ mức 7,6% - 8,2%/năm lên 8,4% - 9,2%/năm.Trong khi đó, các khoản tiền gửi kỳ hạn dài 18, 24, 36, 48 và 60 tháng đến nay đã tăng lên đến 9,4%/năm.
Đặc biệt, nếu gửi tiền qua kênh trực tuyến khách hàng sẽ nhận được mức lãi suất 8,8%/năm cho kỳ hạn 6 tháng; 9,4%/năm với kỳ hạn 12 tháng và 9,5%/năm với kỳ hạn 24 tháng.
Nhưng điều đáng chú ý hơn là ở một số ngân hàng quy mô nhỏ, do áp lực thanh khoản cuối năm nên đã xuất hiện tình trạng thỏa thuận lãi suất ngoài, với biên độ cộng thêm 1-2% so với bảng giá lãi suất niêm yết chính thức.
Nhất là khi các nhà băng vừa được nới thêm room tín dụng, đang chuẩn bị thanh khoản cho mùa vụ kinh doanh cao điểm cuối năm 2022 cũng như chờ room tín dụng mới đầu tháng 1/2023.
Lãi suất huy động tại một số ngân hàng lên cao sẽ khiến cho mặt bằng lãi suất huy động và cho vay trên thị trường bị đẩy lên, đồng thời dẫn đến rủi ro tiềm ẩn về nợ xấu có thể phát sinh trong tương lai.
Chứng khoán SSI (SSI Research) đánh giá, mức lãi suất phổ biến cho kỳ hạn trên 6 tháng ở các ngân hàng thương mại cổ phần đã được đẩy lên vùng 8,5 - 9,5%/năm và chưa tính đến các mức khuyến mãi tăng thêm dành cho những khoản tiền gửi giá trị lớn.
Chuyên gia SSI nhận định, áp lực đối với lãi suất thị trường 1 (dân cư và tổ chức kinh tế) vẫn còn khá cao khi bối cảnh thanh khoản trên hệ thống về trung hạn vẫn chưa được cải thiện nhiều do chênh lệch huy động vốn – tín dụng ở mức âm.
Theo thông tin từ Ngân hàng Nhà nước, tính từ đầu năm đến 29/11, tín dụng toàn nền kinh tế tăng 12,20% so với cuối năm 2021, tăng so mức 11,5% cuối tháng 10. Trong khi đó, huy động vốn của ngành ngân hàng đến cuối tháng 9/2022 chỉ tăng trưởng 4,6%.
Vì vậy, TS. Võ Trí Thành, chuyên gia kinh tế cũng đưa ra nhận định, tín dụng tăng nhanh trong khi huy động tăng chậm, có tình trạng ngân hàng huy động 100 đồng, cho vay đến 90 đồng. Theo TS. Thành, từ đầu năm đến đầu quý III, kinh tế Việt Nam phục hồi nhanh hơn kỳ vọng rất nhiều. Trong quá trình phục hồi đó ẩn chứa nhiều vấn đề như hệ thống ngân hàng xuất hiện vấn đề thanh khoản, tín dụng tăng nhanh trong khi huy động tăng chậm.
Trong bối cảnh nhiều áp lực từ bên ngoài và bên trong, Ngân hàng Nhà nước buộc phải tăng lãi suất điều hành hai lần, chấp nhận để cho VND mất giá gần 9%.
Thêm “oxy dòng tiền” cho thị trường trái phiếu
Việc sửa đổi Nghị định 65/2022/NĐ-CP sẽ giúp doanh nghiệp phần nào giảm bớt áp lực dòng tiền. Dù vậy, để thị trường trái phiếu sôi động trở lại, còn rất nhiều việc phải làm.
Nửa đầu tháng 12/2022, thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) tiếp tục đóng băng. Tính từ đầu năm tới nay, phát hành trái phiếu mới giảm tới 60%, trong khi lượng TPDN mua lại trước hạn lên tới hơn 177.000 tỷ đồng, tăng gần 40% so với cùng kỳ. Vừa không thể phát hành mới, vừa phải xoay tiền để mua lại trái phiếu trước hạn, doanh nghiệp phát hành lại phải đối mặt với nỗi lo TPDN đáo hạn đạt đỉnh năm 2023-2024 (hơn 600.000 tỷ đồng). Áp lực trả nợ trái phiếu lớn trong bối cảnh dòng tiền khô cạn là nỗi lo lớn nhất của doanh nghiệp phát hành hiện nay, đặc biệt là doanh nghiệp bất động sản.
Trong bối cảnh này, Dự thảo sửa đổi Nghị định 65/2022/NĐ-CP được Bộ tài chính vừa đưa ra lấy ý kiến, trong đó có đề xuất cho phép doanh nghiệp phát hành được gia hạn kỳ hạn trái phiếu thêm 2 năm khiến nhiều doanh nghiệp thở phào.
TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế cho rằng, Dự thảo quy định cho phép gia hạn kỳ hạn trái phiếu là hết sức quan trọng. Theo đó, các doanh nghiệp phát hành sẽ có thêm 2 năm để xoay xở nguồn tiền đảo nợ, bán tài sản, tái cơ cấu nợ.
Bộ Tài chính cũng đánh giá, việc cho phép gia hạn này sẽ giúp thị trường phân tán bớt khối lượng TPDN đáo hạn đạt đỉnh vào năm 2023-2024.
Ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP.HCM cho rằng, Dự thảo đáp ứng được kỳ vọng của doanh nghiệp bất động sản, tăng niềm tin cho thị trường trái phiếu. Việc này giúp doanh nghiệp giảm bớt áp lực dòng tiền, có thêm thời gian và nguồn lực để tái cấu trúc nợ, phục hồi, vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay, dần giúp thị trường bất động sản dần tan băng.
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, giai đoạn năm 2025-2026, doanh nghiệp sẽ cơ bản giải quyết hết các khó khăn về thanh khoản và cơ cấu nợ. Đương nhiên, việc gia hạn TPDN phải được các chủ sở hữu trái phiếu đại diện trên 65% tổng số TPDN đang lưu hành chấp thuận.
Không chỉ cho phép gia hạn kỳ hạn trái phiếu thêm 2 năm, Dự thảo còn cho phép chuyển đổi TPDN thành khoản vay hoặc tài sản khác. Thực tế, việc chuyển đổi này đã được các doanh nghiệp phát hành triển khai mấy tháng nay và cũng không vi phạm quy định pháp luật. Tuy nhiên, việc quy định rõ trong Nghị định sẽ giúp doanh nghiệp thuận lợi hơn trong việc lựa chọn các phương thức thanh toán nợ trái phiếu cho các nhà đầu tư.
TS. Lê Xuân Nghĩa nhận định, các quy định trên có ý nghĩa thực tiễn rất lớn, nếu sớm được ban hành sẽ giúp thanh khoản thị trường cải thiện, dần lấy lại niềm tin cho nhà đầu tư.
Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia cũng cho rằng, các quy định của Dự thảo có tác dụng hỗ trợ rất tốt cho thanh khoản thị trường và tâm lý nhà đầu tư. Tất nhiên, về dài hạn, để thị trường phát triển mạnh mẽ trở lại, vẫn cần thêm các giải pháp khác.
Một số ý kiến cho rằng, Dự thảo chỉ là biện pháp “câu giờ”, đẩy quả bóng trái phiếu về tương lai, biến thành bom nổ chậm, thay vì bom sắp nổ.
Mặc dù vậy, các chuyên gia cho rằng, nếu cho doanh nghiệp thời gian gỡ vấn đề thanh khoản, ngòi nổ trái phiếu sẽ được xử lý trong 2 năm tới. Tất nhiên, trong thời gian này, vẫn cần bổ sung một số giải pháp để giải quyết tận gốc, khi đó mới khôi phục được niềm tin của nhà đầu tư.
TS. Cấn Văn Lực cho rằng, các biện pháp mà Dự thảo đưa ra đã tháo gỡ khó khăn về phía cung, giúp doanh nghiệp phát hành dễ thở hơn. Tuy nhiên, cần có thêm giải pháp về phía cầu để tăng dòng tiền mới vào thị trường. Cụ thể, theo chuyên gia này, cần có cơ chế cởi mở hơn với các nhà đầu tư tổ chức như ngân hàng, quỹ đầu tư, quỹ mở… để các tổ chức mạnh dạn đầu tư vào TPDN.
Ngoài ra, chuyên gia này cũng cho rằng, cùng với việc cho thị trường thêm thời gian để điều chỉnh, Bộ Tài chính cần nhanh chóng có giải pháp để đẩy mạnh kênh phát hành TPDN ra công chúng. Muốn vậy, cần phải rút gọn thời gian phê duyệt hồ sơ xuống còn 15-30 ngày.
Với doanh nghiệp, TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng, doanh nghiệp phát hành nên tận dụng 1 năm “hoãn” Nghị định 65/2022/NĐ-CP để chuẩn bị hồ sơ phát hành ra công chúng, minh bạch thông tin, tiến tới xếp hạng tín nhiệm…
Các chuyên gia không cho rằng, các quy định mới của Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 65/2022/NĐ-CP sẽ “làm hư” doanh nghiệp phát hành hoặc khiến nhà đầu tư lao vào thị trường trái phiếu bất chấp rủi ro. Khủng hoảng của thị trường TPDN vừa qua đã là bài học đắt giá cho doanh nghiệp phát hành và cả nhà đầu tư.
Hơn nữa, khi sửa đổi Nghị định 65/2022/NĐ-CP, Bộ Tài chính cũng đề ra nguyên tắc: các quy định sửa đổi chỉ để thị trường có thêm thời gian điều chỉnh lại, giúp doanh nghiệp phát hành có thể cân đối nguồn tiền trong ngắn hạn để trả nợ. Về dài hạn, thị trường trái phiếu vẫn phải nắn chỉnh theo Nghị định 65/2022/NĐ-CP.
Chính sách “xoay chiều”, thanh khoản nền kinh tế đã dần dễ thở
Bộ Tài chính sửa Nghị định 65 và room tín dụng được nới đang giúp khủng hoảng thanh khoản vơi bớt phần nào với doanh nghiệp.
Phát biểu tại Talk show Chọn danh mục kỳ thứ 8 với chủ đề “Chờ tín hiệu tích cực”, các chuyên gia đánh giá cao ý nghĩa các động thái chính sách gần đây với thị trường.
Ông Huỳnh Minh Tuấn, Founder, Tổng giám đốc Công ty Đầu tư FIDT và là Giám đốc môi giới Hội sở CTCK Mirae Asset cho rằng, chúng ta đang chứng kiến sự “quay xe” của chính sách hiện tại, gồm cả sửa Nghị định 65/2022/NĐ-CP về trái phiếu riêng lẻ và tăng cung tiền (nới room tín dụng).
Cách đây 2 tháng, nền kinh tế rơi vào khủng hoảng thanh khoản, trầm trọng hơn cả giai 2010-2012. Thị trường trái phiếu mất niềm tin, thị trường bất động sản đóng băng, thị trường cổ phiếu thanh khoản tốt hơn nhưng nhà đầu tư phải dùng dòng tiền để bù đắp thanh toán, trả nợ dài hạn…
“Tuy vậy, sự “quay xe”, xoay chiều của chính sách cho thấy, các cơ quan quản lý đã thấy thị trường cần được hà hơi tiếp sức để đi qua cuộc khủng hoảng thanh khoản. Tôi đánh giá đây là động thái phù hợp ở hiện tại và sẽ tạo ra những tín hiệu tích cực hơn, dễ thở hơn về mặt thanh khoản cho thị trường”, ông Tuấn nhận định.
Theo các chuyên gia, room tín dụng còn lại trong 2 tuần còn lại của năm 2022 là khá lớn, song do danh sách khách hàng chờ vay vốn cao nên ngân hàng vẫn có thể tăng tốc giải ngân kịp.
Riêng về dự thảo sửa đổi Nghị định 65/2022/NĐ-CP có 5 điểm sửa đổi đáng chú ý, giúp doanh nghiệp phát hành dễ thở hơn.
Thứ nhất, dự thảo cho phép “hoãn” nâng chuẩn nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp thêm 1 năm. Thứ hai, hoãn xếp hạng tín nhiệm thêm 1 năm. Thứ ba, thời gian phân phối trái phiếu là 90 ngày (giữ nguyên theo Nghị định 153 thay vì giảm còn 30 ngày theo Nghị định 65). Thứ tư, các doanh nghiệp phát hành trái phiếu sẽ được giãn thời gian đảo nợ tối đa là 2 năm khi được 65% trái chủ đồng ý. Thứ năm, cho phép doanh nghiệp phát hành và trái chủ được thoả thuận với nhau để chuyển đổi trái phiếu sang tài sản khác hoặc khoản vay.
“Cá nhân tôi đánh giá, dự thảo Nghị định sửa đổi này nếu được ban hành sẽ hỗ trợ tốt hơn cho các doanh nghiệp phát hành trái phiếu, đặc biệt là doanh nghiệp bất động sản. Nghị định này sẽ tạo thêm không gian, thời gian và dư địa, cho doanh nghiệp có thêm thời gian tái cơ cấu lại tình hình tài chính, thoả thuận lại với các trái chủ, hoán đổi tài sản từ trái phiếu sang các tài sản khác. Đây là thông tin tốt cho thị trường chứng khoán và bất động sản. Vừa qua, thị trường chứng khoán đã phục hồi khá tốt, thanh khoản cũng có sự cải thiện”, ông Phùng Trung Kiên, Giám đốc Phân tích CTCK AIS nhận định.
Mặc dù áp lực thanh khoản tạm thời sẽ dịu bớt khi doanh nghiệp sẽ có thêm thời gian 1-2 năm để xoay xở, song câu chuyện dòng tiền của nền kinh tế hay thanh khoản của từng doanh nghiệp vẫn là câu chuyện phải bàn thêm.
Hiện nay, doanh nghiệp đang huy động vốn ở 3 nguồn vốn chính: tín dụng, trái phiếu, cổ phiếu. Việc NHNN vừa nới room tín dụng góp phần giúp nền kinh tế dễ thở hơn. Tuy nhiên, với các doanh nghiệp bất động sản – vốn được coi là lĩnh vực rủi ro – việc tiếp cận vốn tín dụng là không dễ, nhất là với Dự án cao cấp, xa xỉ. Vì vậy, để thoát khỏi khó khăn thanh khoản, các doanh nghiệp này sẽ phải cơ cấu lại chiến lược bán hàng, chiết khấu giá mạnh để tạo được dòng tiền, thậm chí phải chấp nhận bán lỗ.
Chính vì vậy, mặc dù thị trường đang phản ứng tích cực với dự thảo sửa đổi Nghị định 65, ông Nguyễn Minh Tuấn vẫn khuyến cáo, nhà đầu tư nên thận trọng lựa chọn với cổ phiếu bất động sản, nên lựa chọn các doanh nghiệp có năng lực tài chính khỏe mạnh, quỹ đất sạch…
Về vốn cho doanh nghiệp bất động sản, ông Phùng Trung Kiên cho rằng, năm tới, các doanh nghiệp bất động sản sẽ phải phát hành trái phiếu theo hướng chuẩn chỉnh hơn và phải tìm kiếm nguồn bổ sung mới.
Theo đó, có 4 nguồn vốn trung, dài hạn mà doanh nghiệp ngành này phải tính tới năm 2023.
Thứ nhất, phải bán bớt các dự án không ưu tiên để tập trung vốn cho các dự án ưu tiên. Thứ hai, khả năng năm 2023 thị trường chứng khoán sẽ khởi sắc trở lại, doanh nghiệp bất động sản có thể tập trung phát hành cổ phiếu để huy động vốn khi thị trường trái phiếu vẫn khó khăn. Thứ ba, tìm kiếm các đối tác chiến lược để bổ sung vốn, năng lực quản lý, đầu tư, kỹ năng bán hàng. Thứ tư là phát hành trái phiếu quốc tế.
“Những chính sách chấn chỉnh lại thị trường trái phiếu vừa qua đã làm ảnh hưởng tới thị trường trong ngắn hạn song là tích cực cho trung, dài hạn. Thời gian tới, khi chính sách được điều chỉnh theo hướng minh bạch hơn, các doanh nghiệp bất động sản phải cơ cấu lại và phải đa dạng hoá nguồn vốn. Tôi nghĩ rằng, hiện các doanh nghiệp bất động sản cũng đang có những tính toán thay đổi về cơ cấu nguồn vốn dài hạn trong tương lai”, ông Kiên nhận định.
Lành mạnh thị trường trái phiếu: “Khoanh vùng” nhà phát hành rủi ro để có biện pháp riêng
Tại Diễn đàn kinh tế Việt Nam năm 2022 sáng nay, các chuyên gia đã đưa ra nhiều kiến giải để giúp lành mạnh hóa thị trường tài chính và bất động sản, đặc biệt là TPDN.
Tại Hội thảo chuyên đề với chủ đề "Lành mạnh hoá thị trường tài chính và thị trường bất động sản để phát triển kinh tế nhanh và bền vững" thuộc Diễn đàn kinh tế Việt Nam 2022 diễn ra sáng nay (ngày 17/12), ông Phạm Thanh Hà, Phó Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết, năm 2022, dù dự báo trước Fed sẽ thắt chặt chính sách tiền tệ, song tần suất và mức độ tăng lãi suất của Fed nằm ngoài dự báo của các quốc gia.
Trong bối cảnh thị trường tài chính toàn cầu biến động mạnh, kinh tế Việt Nam không thể tránh bị ảnh hưởng. Trong tình thế khó khăn, những bất cập tích tụ của nền kinh tế đã bộc lộ, biểu hiện rõ qua diễn biến của thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu doanh nghiệp và thị trường bất động sản.
Tiến sỹ Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng của BIDV, thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính - Tiền tệ quốc gia đã đưa ra bức tranh chung của thị trường tài chính, trong đó nhấn mạnh đặc biệt đến thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường chứng khoán.
Về nhận định thị trường trái phiếu, chuyên gia Cấn Văn Lực cho rằng, vấn đề thanh khoản của thị trường trái phiếu doanh nghiệp và rủi ro liên thông giữa thị trường này với thị trường tiền tệ, thị trường tài sản sẽ là rủi ro mang tính trọng yếu trong năm 2023 - 2024. Chính phủ cần chỉ đạo có phương án, giải pháp cụ thể, khả thi giải quyết rủi ro trái phiếu doanh nghiệp này.
Về phía Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, ông Cấn Văn Lực đề xuất, hai cơ quan này sớm phát triển các sản phẩm chứng khoán phái sinh mới như hợp đồng tương lai trên chỉ số cố phiếu khác, hợp đồng tương lai trên cổ phiếu đơn lẻ, hợp đồng quyền chọn... nhằm đa dạng hóa sản phẩm, khắc phục hạn chế hiện tại, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Theo số liệu của UBCK, khối lượng phát hành có xu hướng giảm trong thời gian qua.
Tính đến ngày 25/11/2022, khối lượng phát hành TPDN là 331.811 tỷ đồng, giảm 31,6% so với cùng kỳ năm 2021 và có xu hướng giảm dần qua các Quý 1. Về cơ cấu phát hành, các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp bất động sản, xây dựng vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng khối lượng phát hành.
Tính đến ngày 25/11/2022, các NHTM phát hành chiếm 41%, các doanh nghiệp bất động sản và xây dựng chiếm lần lượt 28,59 % và 7,73% tổng khối lượng phát hành, doanh nghiệp sản xuất chiếm 6,72% tổng khối lượng phát hành.
Phó Thống đốc NHNN cũng cho rằng, phát triển lành mạnh thị trường cổ phiếu, trái phiếu sẽ tạo ra kênh dẫn vốn trung dài hạn, tạo nguồn vốn bền vững cho thị trường bất động sản. Ngành bất động sản tăng trưởng lành mạnh không chỉ có lợi cho ngành mà còn tạo ra hiệu ứng lan tỏa tới nền kinh tế qua nhiều ngành nghề khác nhau, tạo công ăn việc làm cho lực lượng lớn lao động, thúc đẩy quá trình đô thị hóa, đảm bảo nơi ăn, chỗ ở cho người dân. Sự phát triển bền vững của các thị trường này sẽ hỗ trợ động lực phát triển trung, dài hạn của nền kinh tế, củng cố vững chắc nền tảng vĩ mô ổn định.
Mấu chốt để giải quyết bất cập của thị trường tài chính hiện nay, theo các chuyên gia, vẫn là câu chuyện trái phiếu.
Ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch FiinGroup cho rằng, huy động vốn từ TPDN hiện đã có quy mô tang trưởng lớn hơn tăngg ròng tín dụng trung và dài hạn của hệ thống ngân hàng trong khi huy động vốn qua thị trường chứng khoán còn rất hạn chế. Nói cách khác, kênh TPDN đã phát huy vai trò quan trọng là một kênh huy động vốn trung, dài hạn cho nguồn lực xã hội nhằm phát triển kinh tế trong những năm qua, đặc biệt là kênh TPDN riêng lẻ.
Hiện số dư TPDN đang lưu hành khoảng 1,3 triệu tỷ đồng đến từ 627 doanh nghiệp. Chào bán ra công chúng còn ít với chỉ khoảng 14 doanh nghiệp.
Theo ông Thuân, sự khủng hoảng của thị trường TPDN hiện nay sẽ gây ra các rủi ro lớn với hệ thống tài chính cũng như tang trưởng kinh tế. Cụ thể, tâm lý nhà đầu tư tiếp tục tiêu cực khiến vai trò đầu tư của thị tường vốn giảm sút, huy động vốn mới và tái cấp vốn khó khăn, bao gồm cả doanh nghiệp tốt, tác động dây chuyền tiếp tục trên thị trường vốn. Ngoài ra, trường hợp vi phạm nghĩa vụ nợ trái phiếu ở mức cao cũng sẽ ảnh hưởng chéo sang nợ xấu ngân hàng và thị trường chứng khoán…
Để lấy lại niềm tin cho thị trường trái phiếu, ông Thuân cho rằng, cần có liệu pháp riêng cho các nhà phát hành có rủi ro, đẩy nhanh tiến độ xử lý và tái cấu trúc nợ; có thể cho phép bán TPDN riêng lẻ cho nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ nếu được ngân hàng thẩm định và bảo lãnh thanh toán…
Về trung, dài hạn, theo ông Thuân, cần tiếp tục hoàn thiện nền tảng thị trường theo 3 nhóm giải pháp: chuẩn hóa chất lượng cung hàng, hạ tầng trung gian về giao dịch và minh bạch thông tin; mở rộng nhà đầu tư định chế.
Ngân hàng Nhà nước bắt đầu mua can thiệp ngoại tệ, bơm ròng tiền đồng
Sáng nay (15/12), Sở giao dịch NHNN bắt đầu công bố tỷ giá USD mua vào (23.450), bắt đầu mua ngoại tệ can thiệp. Phiên hôm qua, NHNN đã bơm ròng ra thị trường gần 5.700 tỷ đồng qua thị trường mở.
Sáng nay (15/12), tỷ giá USD niêm yết tại một loạt ngân hàng giảm 100 đồng/USD với cả hai chiều (mua vào, bán ra) sau khi Fed công bố lộ trình cắt giảm lãi suất từ năm 2024. Tỷ giá trung tâm được NHNN niêm yết ở mức 3.654 đồng/USD, giảm 1 đồng/USD so với phiên giao dịch trước.
Đặc biệt, sáng nay, Sở giao dịch NHNN bắt đầu công bố tỷ giá USD mua can thiệp ở mức 23.450 đồng/USD, bắt đầu động thái mua vào ngoại tệ can thiệp. Trước đó, vào ngày 7/9/2022, NHNN ngừng nniêm yết tỷ giá mua can thiệp do thanh khoản thị trường ngoại tệ căng thẳng.
Theo nguồn tin của các ngân hàng thương mại, NHNN áp dụng phương án mua ngoại tệ can thiệp từ hôm nay (25/12/2022), áp dụng với các tổ chức tín dụng có trạng thái ngoại tệ dương và có nhu cầu bán ngoại tệ cho NHNN. Mức ngoại tệ mua tối đa từ mỗi tổ chức tín dụng mỗi lần tương dương mức để đưa trạng thái ngoại tệ của tổ chức tín dụng đó về mức cân bằng. Hình thức mua can thiệp ngoại tệ là giao ngay.
Động thái mua can thiệp tỷ giá trở lại của NHNN cho thấy thanh khoản thị trường ngoại tệ đã bớt căng thẳng hơn. Đồng USD đang đạt đỉnh khiến nhiều người dân chuyển từ găm giữ sang bán cho ngân hàng thương mại để “chốt” giá cao. Bên cạnh đó, nguồn ngoại tệ về dồi dào hơn dịp cuối năm (xuất khẩu, kiều hối, giải ngân vốn FDI...) cũng giúp một số ngân hàng bắt đầu dư thừa thanh khoản ngoại tệ.
Trên thị trường liên ngân hàng phiên hôm qua, tỷ giá chốt phiên với mức 23.555 VND/USD, giảm 45 đồng so với phiên 13/12. Tỷ giá trên thị trường tự do giảm 150 đồng ở chiều mua vào.
Với tiền đồng, trên thị trường liên ngân hàng đêm qua, lãi suất chào bình quân liên ngân hàng bằng VND giảm 0,02 – 0,22 điểm phần trăm ở tất cả các kỳ hạn từ 1 tháng trở xuống so với phiên trước đó. Hiện lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân hàng là ON 5,28%/năm.
Trên thị trường mở, phiên hôm qua, NHNN chào thầu 5.000 tỷ đồng trên kênh cầm cố với kỳ hạn 14 ngày, lãi suất 6,0%; chào thầu 3.000 tỷ đồng kỳ hạn 91 ngày, đấu thầu lãi suất. Có 7,307,44 tỷ đồng trúng thầu ở cả 2 kỳ hạn, kỳ hạn 91 ngày trúng thầu với lãi suất 6,5%; có 11.614,09 tỷ đồng đáo hạn. NHNN không chào thầu tín phiếu NHNN, có 9.999,9 tỷ đồng tín phiếu đáo hạn. Như vậy, NHNN bơm ròng 5.693,25 tỷ đồng ra thị trường qua nghiệp vụ thị trường mở. Khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố ở mức 77.559,76 tỷ đồng, khối lượng tín phiếu lưu hành ở mức 10.000 tỷ đồng.