Ngân hàng - Bảo hiểm
Ngân hàng khát room tín dụng, nợ xấu và trái phiếu doanh nghiệp tiếp tục nóng
TL - 29/05/2022 10:05
Gói hỗ trợ lãi suất 2% chính thức được triển khai, ngân hàng lo thiếu room tín dụng, nợ xấu bất động sản, thị trường TPDN nguy cơ tắc... là những tâm điểm ngân hàng tuần qua.

Ngân hàng nào không “xài” hết room tín dụng sẽ bị điều chuyển

Ngân hàng Nhà nước cho biết rất thấu hiểu nhu cầu nới room tín dụng của các ngân hàng thương mại và cam kết sẽ tính toán lượng vốn bơm ra nền kinh tế một cách hợp lý.

 Bà Hà Thu Giang, Phó Vụ trưởng phụ trách Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (Ngân hàng Nhà nước) cho hay, nguyên tắc của Ngân hàng Nhà nước là những ngân hàng nào không sử dụng hết room tín dụng sẽ được chuyển sang cho ngân hàng khác.

Quý I/2022, trong khi nhiều ngân hàng như Vietcombank, MB, MSB, HDBank... tăng trưởng tín dụng rất cao, thì nhiều ngân hàng lại có mức tăng tín dụng rất thấp, thậm chí một số ngân hàng sụt giảm so với cùng như NCB, KienlongBank, PG Bank..

Tín dụng 5 tháng đầu năm bật tăng gấp hơn 2 lần cùng kỳ khiến nhiều ngân hàng rơi vào tình trạng thiếu room. Đặc biệt, 4 ngân hàng thương mại nhà nước (Agribank, VietinBank, Vietcombank, BIDV) là đơn vị chủ lực triển khai gói hỗ trợ lãi suất 2% đang rất lo lắng thiếu dư địa triển khai.

Với lượng tín dụng nằm trong nhóm hỗ trợ lãi suất chiếm tới 30-40% tổng dư nợ tín dụng hiện hữu, dự kiến nhu cầu vay vốn của khách hàng sẽ tăng mạnh khi gói hỗ trợ lãi suất được triển khai, trong khi room tín dụng của nhiều ngân hàng đã gần cạn. Chính vì vậy, cả 4 ngân hàng thương mại nhà nước đều đồng loạt kiến nghị Ngân hàng Nhà nước nới room.

Trước đề nghị của các ngân hàng thương mại, Phó thống đốc Đào Minh Tú cho biết Ngân hàng Nhà nước sẽ tính toán việc bơm thêm vốn cho nền kinh tế qua kênh tín dụng một cách hợp lý để đảm bảo những mục tiêu lớn vĩ mô chung và mục tiêu cụ thể tạo dư địa cho gói hỗ trợ lãi suất 2% trước mắt.

Theo Phó thống đốc, ngay từ khi phân bổ room tín dụng kỳ đầu tiên, Ngân hàng Nhà nước đã nhận thấy tín dụng năm nay sẽ tăng mạnh hơn năm trước rất nhiều. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước phải kiểm soát tăng trưởng tín dụng ở hợp lý để kiểm soát lạm phát.

"Tăng trưởng tín dụng nóng dẫn đến kiểm soát lạm phát khó khăn. Ngược lại, thắt chặt tín dụng thì không thể tăng trưởng kinh tế. Do vậy, room tín dụng phải giải quyết thỏa đáng. Cơ quan quản lý cũng sẽ xem xét, tính toán, điều hành khối lượng tín dụng đưa ra nền kinh tế. Trong đó, tăng trưởng tín dụng đầu tiên là phải phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát, phù hợp với chính sách lãi suất và các quan hệ vĩ mô khác; đồng thời tạo dư địa để cho chính sách hỗ trợ lãi suất 2% được thực hiện.", ông Tú cho hay.  

Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cũng cho hay, từ nay tới cuối năm, tiếp tục tăng trưởng tín dụng là trọng tâm, trách nhiệm khôi phục nền kinh tế của ngành ngân hàng. Tín dụng tăng trên cơ sở đảm bảo các cân đối vĩ mô vừa đảm bảo chất lượng, hiệu quả tín dụng gắn với chính sách giảm 2% lãi suất. 

Theo dự báo của Ngân hàng Nhà nước, gói hỗ trợ lãi suất 2% sẽ khiến tín dụng tăng trưởng cao, Ngân hàng Nhà nước có thể phải tăng room tín dụng cho các ngân hàng. Tuy vậy, Ngân hàng Nhà nước vẫn phải đảm bảo kiểm soát lạm phát. Đây là bài toán khó đặt ra. 

Để thực hiện chương trình hỗ trợ lãi suất 40.000 tỷ, Phó thống đốc yêu cầu các ngân hàng thương mại thực hiện quyết liệt, khẩn truwong, đúng quy định, đối tượng, không được trốn tránh trách nhiệm. Ngân hàng Nhà nước sẽ thanh tra, giám sát để đảm bảo không có trục lợi chính sách.

Liên quan đến tín dụng bất động sản, Phó thống đốc khẳng định: Ngân hàng Nhà nước chưa bao giờ nói "siết chặt tín dụng bất động sản, chứng khoán”. Quan điểm lâu nay của Ngân hàng Nhà nước vẫn là kiểm soát chặt chẽ tín dụng và lĩnh vực rủi ro trong đó có bất động sản đầu cơ, chứng khoán mang tính đầu cơ còn nhà ở công nhân, nhà ở thu nhập thấp - là những hàng hoá cần thiết thì vẫn khuyến khích.

Tín dụng tăng đáng kinh ngạc, Big 4 lo thiếu room triển khai hỗ trợ lãi suất 2%

Lãnh đạo VietinBank, VietcomBank và BIDV đồng loạt đề nghị Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nới room tín dụng vì tín dụng 5 tháng đầu năm đã hồi phục đáng ngạc nhiên.

Ông Nguyễn Việt Cường, Phó tổng giám đốc Vietcombank cho hay, 5 tháng đầu năm nay, tín dụng Vietcombank đã tăng trưởng ở mức “đáng kinh ngạc”: trên 9%. Trong khi đó, dư nợ cho vay các đối tượng được hỗ trợ lãi suất chiếm tới gần 30% tổng dư nợ ngân hàng với gần 30.000 khách khàng.

Theo ông Cường, nhu cầu tín dụng của doanh nghiệp sau 2 năm Covid giống như cơn khát nước sau trận hạn hán, tăng lên rất nhanh. Với room tín dụng hiện nay, chắn chắc sẽ không đáp ứng đủ. Vì vậy, đại diện Vietcombank mong mỏi NHNN nới room tín dụng. 

Tương tự, ông Trần phương, Phó tổng giám đốc BIDV cũng cho biết, qua rà soát sơ bộ, ngân hàng thống kê thấy có khoảng 10.000 khách hàng ban đầu đáp ứng đủ điều kiện được hỗ trợ lãi suất và con số này sẽ tiếp tục tăng năm nay và năm tới.

“Bắt đầu từ quý IV/2021 đế nnay, nhu cầu vay vốn của khách hàng tăng lên rất mạnh, đặc biệt là các khách hàng tốt. Trong khi đó, room tín dụng 10% là không thể đáp ứng. Rất mong NHNN nới room tín dụng cho BIDV và các TCTD lớn để triển khai hỗ trợ lãi suất hiệu quả".

Cũng đề cập mối lo ngại này, lãnh đạo VietinBank lại đề xuất, NHNN nên loại trừ hạn mức tín dụng hỗ trợ lãi suất ra khỏi room tín dụng của các ngân hàng, để các ngân hàng yên tâm triển khai.

“Room tín dụng hiện nay rất eo hẹp gây áp lực lớn cho tăng trưởng ngắn hạn và trung, dài hạn của ngân hàng”, lãnh đạo ngân hàng nà cho biết.

Theo Phó thống đốc Đào Minh Tú, tính đến ngày 20/5, tín dụng toàn ngành kinh tế tăng 7,66%, còn tính tới 27/5 ước tăng ,75%, tăng cao hơn gấp 2 lần cũng thời diểm năm 2021. Đáng nói, tín dụng tăng đều vào tất cả lĩnh vực của nền kinh tế chứ không phải dồn vào một vài lĩnh vực. Thậm chí, một số lĩnh vực gặp khó khăn thời gian qua lại có mức tăng trưởng tín dụng cao: tín dụng vận tải, du lịch, dịch vụ, vận tải tăng 8,25%, tín dụng công ngiệp phụ trợ tăng trên 7,6%...

Dòng vốn tín dụng tăng trưởng tốt và được điều hướng tích cực đã bù đắp đáng kể sự thiếu hụt vốn cho doanh nghiệp trong bối cảnh thị trường trái phiếu doanh nghiệp và chứng khoán gặp khó khăn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phục hồi kinh tế.

“Việc triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất 2% sẽ tạo hiệu ứng tích cực hơn cho việc tăng trưởng của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp mạnh dạn hơn trong triển khai kế hoạch sản xuất kinh doanh. Tất nhiên, việc triển khai chính sách này cũng đặt thêm trách nhiệm cho các tổ chức tín dụng trong đảm bảo nguồn cung ứng vốn”, Phó thống đốc khẳng định.

Đại diện Agribank, ngân hàng có dư nợ cho vay lớn nhất hệ thống hiện nay, cũng đề nghị NHNN có giải pháp gỡ vướng kịp thời để quá trình hỗ trợ lãi suất được diễn ra suôn sẻ.

Tín dụng đã tăng 7,75%, NHNN thúc ngân hàng thương mại triển khai gói hỗ trợ lãi suất 2%

Tại Hội nghị trực tuyến toàn ngành triển khai chương trình hỗ trợ lãi suất 2% diễn ra sáng 27/5, Phó thống đốc cho biết, tín dụng 5 tháng đầu năm tăng hơn gấp 2 lần cùng kỳ năm 2021.

Theo Phó thống đốc Đào Minh Tú, tính đến 20/5, tín dụng toàn ngành kinh tế tăng 7,66%, còn tính tới 27/5 ước tăng ,75%, tăng cao hơn gấp 2 lần cũng thời diểm năm 2021. Đáng nói, tín dụng tăng đều vào tất cả lĩnh vực của nền kinh tế chứ không phải dồn vào một vài lĩnh vực. Thậm chí, một số lĩnh vực gặp khó khăn thời gian qua lại có mức tăng trưởng tín dụng cao: tín dụng vận tải, du lịch, dịch vụ, vận tải tăng 8,25%, tín dụng công ngiệp phụ trợ tăng trên 7,6%...

Dòng vốn tín dụng tăng trưởng tốt và được điều hướng tích cực đã bù đắp đáng kể sự thiếu hụt vốn cho doanh nghiệp trong bối cảnh thị trường trái phiếu doanh nghiệp và chứng khoán gặp khó khăn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phục hồi kinh tế.

“Việc triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất 2% sẽ tạo hiệu ứng tích cực hơn cho việc tăng trưởng của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp mạnh dạn hơn trong triển khai kế hoạch sản xuất kinh doanh. Tất nhiên, việc triển khai chính sách này cũng đặt thêm trách nhiệm cho các tổ chức tín dụng trong đảm bảo nguồn cung ứng vốn”, Phó thống đốc khẳng định.

Thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội và Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã chủ động, tích cực phối hợp với các bộ, ngành, ngân hàng thương mại trình Chính phủ ban hành Nghị định 31/2022/NĐ-CP và theo thẩm quyền ban hành Thông tư 03/2022/TT-NHNN hướng dẫn các ngân hàng thương mại thực hiện hỗ trợ lãi suất theo Nghị định.

Nợ xấu bất động sản có đáng ngại?

Nợ xấu của ngành ngân hàng vẫn được kiểm soát, song những khó khăn của nền kinh tế cũng như của doanh nghiệp, người dân có thể bộc lộ rõ nét hơn trong thời gian tới.

Dựa trên báo cáo tài chính công bố, dư nợ cho vay kinh doanh bất động sản tính đến hết năm 2021 tại các ngân hàng đều không vượt quá 30% tổng dư nợ cho vay khách hàng. Thậm chí, nhiều nhà băng còn kiểm soát tỷ trọng này ở mức dưới 10%.

Trong số đó, Techcombank là ngân hàng có tỷ lệ dư nợ cho vay kinh doanh bất động sản lớn nhất toàn ngành, với khoảng 27,6% tổng dư nợ, tức hơn 95.900 tỷ đồng. Như vậy, nếu xét theo giá trị tuyệt đối, dư nợ cho vay bất động sản tại Techcombank tăng 4.500 tỷ đồng so với cuối năm 2020, nhưng xét về tỷ trọng lại giảm hơn 5,3%.

Thống kê 26 ngân hàng đang niêm yết trên sàn chứng khoán cho thấy, đến cuối năm 2021, tổng dư nợ cho vay đạt 7,3 triệu tỷ đồng, trong khi giá trị tài sản bảo đảm lên tới 16 triệu tỷ đồng. Tài sản bảo đảm tại các ngân hàng hiện rất đa dạng, gồm bất động sản, tiền gửi, vàng, cổ phiếu, trái phiếu…, nhưng phổ biến nhất vẫn là bất động sản.

Trong đó, đứng đầu hệ thống là Agribank, với giá trị sổ sách các tài sản thế chấp tại ngân hàng mẹ đạt tới 2,327 triệu tỷ đồng, tăng hơn 262.000 tỷ đồng, tương đương tăng 13% so với cuối năm 2020. Riêng tài sản nhận thế chấp là bất động sản đã có giá trị trên 2,018 triệu tỷ đồng, chiếm 87% tổng giá trị tài sản thế chấp tại Agribank và tăng gần 10% so với năm liền trước.

Kế đến là BIDV với số bất động sản thế chấp được định giá hơn 1,53 triệu tỷ đồng cuối năm 2021, tăng 18% so với năm 2020. Ngoài ra, 2 ngân hàng có tài sản bảo đảm bằng bất động sản trên 1 triệu tỷ đồng là VietinBank (1,49 triệu tỷ đồng), Vietcombank (1,16 triệu tỷ đồng)… Tỷ trọng bất động sản trong các tài sản thế chấp của những ngân hàng trên thường ở mức 65 - 70%.

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa có báo cáo bổ sung gửi Quốc hội khóa XV, Kỳ họp thứ ba về việc tổng kết thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng và đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm. Theo đó, mặc dù tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống các tổ chức tín dụng vẫn đang được kiểm soát dưới mức 2%, nhưng những khó khăn của nền kinh tế cũng như của doanh nghiệp, người dân có thể sẽ bộc lộ rõ nét hơn trong thời gian tới, khi đó, tỷ lệ nợ xấu nội bảng dự báo sẽ tiếp tục tăng.

Dịch Covid-19 đã ảnh hưởng lớn đến tình hình tài chính của khách hàng, dẫn đến kết quả xử lý nợ xấu thông qua hình thức khách hàng trả nợ và xử lý tài sản đảm bảo, đặc biệt là tài sản bằng bất động sản gặp nhiều khó khăn trong bối cảnh nền kinh tế chưa phục hồi. Ngoài tác động làm suy giảm chất lượng tài sản, dịch bệnh diễn biến phức tạp còn có nguy cơ làm suy giảm mức độ an toàn vốn, cũng như kết quả kinh doanh của các tổ chức tín dụng khi phải tăng cường trích lập dự phòng rủi ro.

Trong bối cảnh đó, tổ chức tín dụng có thể gặp khó khăn trong việc xử lý các khoản nợ xấu nói chung, nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42/2017/QH14 nói riêng và dự kiến nợ xấu của ngành ngân hàng có thể gia tăng trong thời gian tới. Theo số liệu từ báo cáo tài chính quý I/2022 của 27 ngân hàng, tổng dư nợ xấu các nhà băng đến thời điểm ngày 31/3/2022 đã tăng đến 11% so với cuối năm trước, với hơn 109.600 tỷ đồng.

Trước đó, tại báo cáo chính thức trình Quốc hội, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng (thừa ủy quyền Thủ tướng ký) cho biết, đến ngày 31/12/2021, dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản của hệ thống các tổ chức tín dụng là 2.076.700 tỷ đồng (gồm dư nợ tín dụng tiêu dùng để mua nhà ở; thuê, thuê mua nhà ở; xây dựng, sửa chữa nhà ở; nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất để xây nhà ở), chiếm 19,89% dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế. Tổng nợ xấu đối với lĩnh vực bất động sản là 34.700 tỷ đồng, chiếm 18,4% nợ xấu toàn hệ thống, tỷ lệ nợ xấu trong lĩnh vực này là 1,67%.

Đó cũng lý lý do ngành ngân hàng đưa ra chủ trương “siết” mạnh hơn trong cho vay bất động sản, nhất là bất động sản đầu cơ. NHNN Chi nhánh TP.HCM yêu cầu các tổ chức tín dụng trên địa bàn quản lý chặt tình hình cấp tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản, hạn chế cấp vốn cho đầu tư bất động sản cao cấp, bất động sản du lịch nghỉ dưỡng...

Ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho rằng, chủ trương giám sát, hạn chế tín dụng vào bất động sản được thực hiện từ nhiều năm qua, chứ không phải năm nay mới làm. Nguyên nhân là tín dụng vào bất động sản và chứng khoán mang tính rủi ro cao, nên các ngân hàng cần phải hạn chế. Nhưng chỉ phân khúc bất động sản đầu cơ mới bị hạn chế, còn nhu cầu vay để đáp ứng chỗ ở của người dân, cũng như các dự án đang triển khai có tính pháp lý đầy đủ rõ ràng vẫn được ngân hàng triển khai cho vay.

Đồng ý kéo dài thời gian thí điểm xử lý nợ xấu đến hết năm 2023

 Đa số ý kiến trong Ủy ban Kinh tế thống nhất với sự cần thiết kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD), Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh báo cáo Quốc hội, sau khi Thống đốc Ngân hàng trình nội dung trên, sáng 24/5.

Theo đánh giá của cơ quan thẩm tra, trong thời gian áp dụng Nghị quyết, việc xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD có nhiều tiến triển, nhất là nợ xấu được xác định theo Nghị quyết số 42 (lũy kế từ 15/8/2017 đến 31/12/2021, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 380,2 nghìn tỷ đồng, đạt hơn 70% tổng số nợ xấu được xác định theo Nghị quyết số 42 tại thời điểm 15/8/2017).

Tuy nhiên, kết quả xử lý nợ xấu chưa thực sự vững chắc, thực trạng nợ xấu cho thấy nền kinh tế vẫn tiềm ẩn rủi ro; một số biện pháp áp dụng theo Nghị quyết số 42 chưa phát huy hiệu quả (như áp dụng thủ tục rút gọn tại Tòa án...), ông Thanh nêu rõ.

Đối với nợ xấu nói chung, cơ quan thẩm tra cho rằng xử lý bằng dự phòng rủi ro còn chiếm tỷ lệ cao. Một số lĩnh vực có số nợ xấu chiếm tỷ trọng cao so với nợ xấu của toàn hệ thống như: bất động sản (chiếm 18,4%); cho vay tiêu dùng (chiếm 25,8%); BOT, BT giao thông (3,92%)...

Uỷ ban Kinh tế đề nghị phân tích rõ hơn nguyên nhân dẫn đến số nợ xấu được xác định theo Nghị quyết số 42 đến nay còn ở mức khá cao và có xu hướng gia tăng; các giải pháp đã triển khai thực hiện để nhận diện cũng như kiểm soát rủi ro đối với các khoản cho vay, nhất là các khoản thuộc các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao.

Cơ quan thẩm tra cũng lưu ý, tại báo cáo số 358/BC-CP ngày 5/8/2020 của Chính phủ về kết quả 3 năm thực hiện Nghị quyết số 42 đã nêu 11 nhóm vấn đề khó khăn, vướng mắc khi triển khai thực hiện Nghị quyết. Uỷ ban Kinh tế cũng đã có Báo cáo số 2321/UBKT14 ngày 23/10/2020 đánh giá 3 năm thực hiện Nghị quyết, trong đó đã kiến nghị một số nội dung để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc. Tuy nhiên, đến nay tại Báo cáo gửi Quốc hội, Chính phủ tiếp tục nêu 6 nhóm vấn đề khó khăn, vướng mắc.

Chủ nhiệm Vũ Hồng Thanh nêu rõ, những khó khăn, vướng mắc chủ yếu như việc áp dụng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 7 của Nghị quyết chưa đạt hiệu quả. Một số nội dung tại Nghị quyết chưa được hướng dẫn đầy đủ (như phương pháp thẩm định giá với các khoản nợ, trường hợp trên/trong tài sản bị thu giữ có các tài sản khác của bên bảo đảm hoặc bên thứ ba, nội hàm quy định về “tài sản tranh chấp trong vụ án” tại Điều 7 hoặc “không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án” tại Điều 14 của Nghị quyết); khó triển khai (như điều kiện, hồ sơ áp dụng thủ tục rút gọn tại Tòa án); hoặc chưa thống nhất (như thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm).

Ngoài ra, có một số vấn đề cần thiết trong thực tiễn để thúc đẩy xử lý nợ xấu nhưng chưa được quy định trong Nghị quyết (như chủ thể được thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm, áp dụng thủ tục rút gọn tại Tòa án đối với tranh chấp hợp đồng tín dụng, hoàn trả tài sản bảo đảm là tang vật trong vụ việc vi phạm hành chính).

Uỷ ban Kinh tế đề nghị cần có giải pháp tích cực, quyết liệt hơn để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc nói trên gắn với trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức cụ thể.

Ông Thanh cũng phản ánh ý kiến đề nghị cân nhắc sửa đổi một số nội dung của Nghị quyết số 42 như: mở rộng phạm vi của khoản nợ xấu; bổ sung đối tượng là công ty mua bán nợ được áp dụng các biện pháp xử lý nợ xấu như VAMC; bỏ quy định trong hợp đồng bảo đảm phải có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho TCTD có quyền thu giữ TSBĐ của khoản nợ xấu; bổ sung phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn đối với tranh chấp hợp đồng tín dụng hoặc hoàn trả tài sản bảo đảm là tang vật của vụ việc vi phạm hành chính...

Có ý kiến cho rằng, trong bối cảnh dịch COVID-19, thu ngân sách nhà nước khó khăn, cần nhiều khoản chi cho an sinh xã hội và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, trong khi hoạt động của các TCTD vẫn tăng trưởng và đạt kết quả tốt; do đó, cần xem xét lại thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm quy định tại Điều 12 của Nghị quyết số 42, không nên tiếp tục duy trì chính sách này, báo cáo thẩm tra nêu rõ.

Trước áp lực nợ xấu của các TCTD dự báo sẽ gia tăng trong thời gian tới, cơ quan thẩm đề nghị Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước có các giải pháp để hướng dòng vốn tín dụng vào khu vực sản xuất, kinh doanh, kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng “nóng” vào các tài sản tiềm ẩn rủi ro cao, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trong hoạt động cho vay, đầu tư vào các tài sản này.

Cơ quan trình chính sách còn được đề nghị xây dựng các kịch bản ứng phó linh hoạt với những biến động của thị trường tiền tệ thế giới nhằm bảo đảm nguồn vốn được khơi thông. Tiếp tục chỉ đạo các TCTD tăng cường tính minh bạch, nâng cao khả năng quản trị điều hành, quản trị rủi ro, tăng cường năng lực tài chính nhằm bảo đảm các chuẩn mực, thông lệ quốc tế về an toàn vốn và quản trị vốn.

Chỉnh đốn thị trường trái phiếu doanh nghiệp thế nào cho phù hợp?

TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng, việc siết TPDN thời gian qua khiến các dự án cũ không thể tiếp tục, dự án mới không thể phát triển, thị trường trái phiếu đối mặt với nhiều khó khăn.

TS Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế

 Theo TS Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế, với doanh nghiệp bất động sản, TPDN là kênh huy động vốn trung, dài hạn quan trọng hơn cả ngân hàng. Việc siết chặt thị trường này trong khi khoảng 540 nghìn tỷ đồng TPDN sắp đáo hạn, mà cách làm không phù hợp có thể gây khó khăn cho doanh nghiệp.

“Bộ Tài chính đang chuẩn bị chương trình thanh tra nhiều công ty kiểm toán và công ty chứng khoán. Theo tôi, đáng lẽ, cơ quan chức năng phải rà soát thường xuyên để biết "bệnh" thị trường và có giải pháp kịp thời", TS Lê Xuân Nghĩa bình luận.

Theo chuyên gia này, điều quan trọng nhất là phải nâng tính công khai minh bạch của thị trường, xây dựng chế tài xử phạt đủ mạnh (ví dụ, có thể nâng mức xử phạt lên 1.000 tỷ đồng với nhà đầu tư lũng đoạn thị trường), xây dựng các định chế xây dựng thị trường (nếu thị trường xuống thì có định chế mua vào để thị trường lên, nếu thị trường lên quá nóng thì bán ra cho thị trường đi xuống),  xếp hạng tín nhiệm trái phiếu…

Nhìn từ khía cạnh khác, TS. Phạm Xuân Hoè, nguyên Phó viện trưởng Viện Chiến lược ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước chỉ ra mối nguy nhìn từ nguyên nhân TPDN riêng lẻ bùng nổ, đó là mối quan hệ sân sau ngân hàng trong phát hành trái phiếu.

Theo ông Hòe, sở dĩ trái phiếu doanh nghiệp bất động sản bùng nổ thời gian qua là do câu chuyện giữa ông chủ nhà băng với công ty chứng khoán và doanh nghiệp phát hành trái phiếu.

"Hiện nay có xu hướng các ông chủ bất động sản thôn tính một vài ngân hàng, một số tập đoàn bất động sản mua lại ngân hàng để sẵn sàng trở thành kênh huy động vốn trái phiếu cho mình. Nên dẫn đến việc các doanh nghiệp bất động sản phát hành được rất nhiều trái phiếu. Có một ngân hàng đứng ra làm đại lý phát hành, công ty chứng khoán của ngân hàng tư vấn, chi nhánh quản lý tài sản bảo đảm. Như vậy đã tạo thành quy trình khép kín, nhưng rất rủi ro cho cân đối tài chính”, ông Hòe cho biết.

Việt Nam đã có những tập đoàn tài chính, câu hỏi đặt ra là: ngân hàng nắm giữ các công ty tài chính hay ngược lại. Câu chuyện ở đây là cơ chế giám sát và cơ chế vốn như thế nào?

Chuyên gia này cảnh báo: “Nếu cứ buông lỏng như hiện nay, nguy cơ tập đoàn tài chính ở Việt Nam giống chaebol (tập đoàn tài phiệt Hàn Quốc) là hiện hữu".

Khoảng 540.000 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp sắp đáo hạn, thị trường kém sôi động quý 2/2022

Báo cáo thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) vừa công bố của SSI Research nhận định, mặt bằng lãi suất tiền gửi được kỳ vọng nhích tăng và nhờ vậy lợi suất TPDN cũng sẽ tăng theo khi mà hơn 70% TPDN phát hành có lãi suất thả nổi. Bên cạnh đó, xu hướng tăng lãi suất điều hành của các NHTW lớn và áp lực lạm phát trên thế giới có thể tác động đến tâm lý nhà đầu tư, làm tăng kỳ vọng lãi suất với các đợt phát hành trái phiếu mới. Đó là chưa kể đến việc nhà đầu tư sẽ phải tính lại mức độ rủi ro của ngành bất động sản trong năm 2022.

Tuy nhiên, cũng phải lưu ý rằng, môi trường lãi suất trong năm 2022 được kỳ vọng vẫn tích cực khi chính sách tiền tệ của Việt Nam có độ trễ so với các NHTW lớn trên thế giới, cũng như Chính phủ nhấn mạnh 2022 và 2023 là hai năm hồi phục, do vậy áp lực lên chi phí tài chính khi phát hành TPDN là chưa nhiều.

Mặt khác, số TPDN đáo hạn trong 2 năm 2022-2023 ước khoảng 540 nghìn tỷ đồng, và chiếm khoảng 36% lượng TPDN lưu hành, dẫn đến nhu cầu phát hành để đảm bảo vòng quay vốn của các doanh nghiệp khá cao. Cùng với đó, hoạt động sản xuất kinh doanh được kỳ vọng sẽ sôi động hơn 2021 khi nền kinh tế đang mở cửa trở lại sau đại dịch. Do vậy, nhu cầu phát hành TPDN dự kiến vẫn rất dồi dào.

SSI cũng cho rằng, những thay đổi về quy định pháp lý tác động mạnh đến thị trường Bộ Tài Chính đang lấy ý kiến từ các chuyên gia về dự thảo sửa đổi lần thứ 5, bổ sung Nghị định 153 và thu hút nhiều sự chú ý trên thị trường, với nhiều quy định chặt chẽ khiến doanh nghiệp khó tiếp cận hơn đến kênh phát hành trái phiếu riêng lẻ.

Ngoài việc quy định chi tiết hơn và chặt chẽ hơn về trách nhiệm công bố thông tin, hoạt động lưu ký tập trung, điều kiện đăng ký/ thay đổi/ hủy bỏ giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán để phát triển thị trường thứ cấp; dự thảo còn đưa ra một số điểm sửa đổi bổ sung quan trọng, có thể tác động mạnh đến thị trường TPDN.

Cụ thể bổ sung các yêu cầu sau: Doanh nghiệp không được phát hành trái phiếu để góp vốn dưới mọi hình thức, mua cổ phần, mua trái phiếu của doanh nghiệp khác, hoặc cho doanh nghiệp khác vay vốn; Doanh nghiệp phát hành phải mua lại trái phiếu trước hạn khi có yêu cầu, trong trường hợp vi phạm không thể khắc phục được.

Ngoài ra, nhà phát hành cũng phải tuân thủ chặt các điều kiện về tỷ lệ an toàn tài chính: tổng dư nợ của tất cả các loại trái phiếu không được vượt quá 3 lần vốn chủ sở hữu (Nghị định 81/2020 quy định 5 lần và sau đó nghị đính 153/2020 đã bỏ); có kết quả kinh doanh của năm trước liền kề có lãi (khôi phục lại quy định từ Nghị định 90/2011/NĐ-CP) và không có lỗ lũy kế; có tài sản bảo đảm hoặc bảo lãnh thanh toán đối với phần dư nợ trái phiếu lớn hơn vốn chủ sở hữu;

Dự thảo cũng đưa ra điều kiện chặt chẽ hơn về nhà đầu tư chuyên nghiệp, cũng như yêu cầu chỉ được mua trái phiếu riêng lẻ do công ty đại chúng phát hành có tài sản bảo đảm hoặc bảo lãnh thanh toán, trên cả thị trường sơ cấp và thứ cấp.

Nhìn chung, bản dự thảo sửa đổi số 5 đề cao tính minh bạch và chống lại các rủi ro gian lận trong quá trình phát hành trái phiếu tuy nhiên bản chất hoạt động của thị trường TPDN vẫn phải dựa trên nguyên tắc lợi nhuận – rủi ro đem lại. Các quy định như trong dự thảo sửa đổi số 5 sẽ khiến cho kênh huy động vốn bằng phát hành trái phiếu riêng lẻ khó khăn hơn trước.

“Thị trường TPDN sẽ kém sôi động hơn ít nhất trong Quý 2 trước khi có các chính sách rõ ràng hơn từ Chính phủ Sự kiện Tân Hoàng Minh và các động thái siết chặt của Chính phủ trên thị trường TPDN riêng lẻ trong thời gian qua có đã tác động cả doanh nghiệp phát hành và tâm lý nhà đầu tư”, các chuyên gia phân tích SSI nhận định.

Trên thực tế, thị trường TPDN cần được xây dựng như là sản phẩm của thị trường vốn dù đặc thù có tính trung dài hạn. Chính phủ mục tiêu vẫn đang định hướng phát triển thị trường vốn, giảm sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào tín dụng ngân hàng do vậy việc phát triển thị trường TPDN riêng lẻ là cần thiết.

Tính đến cuối năm 2021, quy mô của thị trường TPDN vào khoảng 18% GDP, thấp hơn so với mục tiêu của Chính phủ là dư nợ thị trường TPDN đạt khoảng 20% GDP vào năm 2025.

Các động thái gần đây của Chính phủ nên được nhìn nhận là cách để có thể thanh lọc thị trường tốt hơn, hạn chế sự tham gia của các doanh nghiệp yếu kém, chống gian lận và tạo môi trường tích cực cho các các doanh nghiệp tốt tham gia thị trường.

Bên cạnh đó, đối với các nhà đầu tư cá nhân, cần phải nhấn mạnh rằng bản chất vận hành của thị trường TPDN là thị trường vốn, nghĩa là có rủi ro và lợi nhuận (lợi suất trái phiếu) được định giá trên cơ sở rủi ro. Do vây, điều quan quan trọng là có các cơ chế để tăng cường tính minh bạch hóa của thị trường để giúp nhà đầu tư có thể đánh giá tốt hơn những rủi ro có thể gặp phải. Trước mắt, những điều có thể làm ngay, dựa trên các qu định sẵn có, bao gồm việc rút ngắn thời gian cấp phép cho việc phát hành ra công chúng, để doanh nghiệp không cn phải quá phụ thuộc vào phát hành riêng lẻ. Ngoài ra chuyên trang thông tin về trái phiếu doanh nghiệp tại Sở GDCK cần được cung cấp thêm các thông tin như mục đích phát hành, lãi suất phát hành, các đơn vị trung gian tham gia vào hoạt động phát hành thay vì chỉ có những thông tin cơ bản như khối lượng và kỳ hạn như hiện tại.

Kế hoạch triển khai Sàn giao dịch TPDN cần được nhanh chóng tiến hành nhằm yêu cầu các doanh nghiệp có thể cung cấp thông tin một cách chuẩn hóa và dễ dàng tiếp cận đến nhà đầu tư. Bên cạnh đó, Chính phủ tạo điều kiện nhằm có thể điều hướng luồng vốn thông qua các tổ chức trung gian (Quỹ đầu tư trái phiếu chuyên nghiệp,…). Phát triển thị trường xếp hạng tín nhiệm cũng là một yếu tố cần được xem xét, giúp thị trường có thêm nhiều thông tin hơn.

Tin liên quan
Tin khác