Tại buổi họp về công tác quản lý, điều hành giá, kiểm soát lạm phát năm 2021 mới đây, Phó thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái đã yêu cầu Bộ Công Thương nghiên cứu, có biện pháp thúc đẩy tăng năng lực sản xuất thép thành phẩm trong nước, hướng tới đáp ứng được cơ bản nhu cầu trong nước.
Phó thủ tướng cũng yêu cầu Bộ Công Thương đưa ra giải pháp điều chỉnh mất cân đối cung ứng sản phẩm thép trên thị trường trong nước, thông qua cân đối khối lượng xuất khẩu thép thành phẩm.
Nguồn tin của Báo Đầu tư cho biết, từ tháng 10/2020 tới thời điểm tháng 5/2021 này, giá thép cuộn xây dựng thành phẩm đã tăng 56%; còn thép cây tăng 42%.
Trước đó, sau khi Hiệp hội các nhà thầu Việt Nam đã có công văn tới các cơ quan chức năng nêu nghi vấn liệu “có sự bắt tay” của các công ty thép, nhằm tăng giá thép lên cao thì Bộ Công Thương cũng đã khẳng định, nghi vấn này không có cơ sở.
Theo Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) cho biết, nguồn nguyên liệu sản xuất đầu vào của sản phẩm thép hiện nay đa phần phải nhập khẩu, như quặng sắt, thép phế liệu, than mỡ luyện cốc, điện cực graphite... phụ thuộc rất lớn vào giá nguyên liệu thế giới. Trong thời gian gần đây, giá các nguyên vật liệu sản xuất thép tăng cao đột biến trên thị trường toàn cầu, cùng với dịch bệnh, thời gian giao hàng kéo dài cũng là những lý do khiến giá thép tăng mạnh.
Dự kiến trong năm 2021, Việt Nam sẽ tiếp tục phải nhập khẩu nhiều loại nguyên liệu để sản xuất thép như quặng sắt cho các lò cao khoảng hơn 18 triệu tấn, thép phế liệu khoảng 6 - 6,5 triệu tấn cho các lò điện, than mỡ luyện cốc khoảng 6,5 triệu tấn và điện cực graphite khoảng 10.000 tấn…
Với dự báo giá quặng sắt, thép phế liệu, quặng nguyên liệu thô và than mỡ luyện cốc… vẫn duy trì ở mức cao sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp sản xuất thép và thị trường thép trong nước.
Cán cân thương mại đối với sản phẩm thép sẽ tiếp tục bị thâm hụt trong năm 2021 (trong năm 2020 thâm hụt hơn 6,4 tỷ USD ).
Về quặng sắt (nguyên liệu chủ yếu để luyện thép) của Việt Nam có trữ lượng và tài nguyên dự báo chỉ khoảng 1,3 tỷ tấn. Trong đó, lớn nhất là 2 mỏ gồm: Mỏ sắt Thạch Khê với trữ lượng khoảng 544 triệu tấn đã dừng hoạt động từ năm 2011 đến nay chưa hoạt động trở lại; mỏ sắt Quý Xa với trữ lượng khoảng 124 triệu tấn, được cấp phép khai thác từ năm 2007 với công suất 3 triệu tấn/năm, thời hạn giấy phép khai thác hết năm 2020. Hiện nay, một số cơ quan chỉ thống nhất cấp phép lại với công suất 900.000 tấn/năm (chỉ để phục vụ đủ cho Nhà máy Gang thép Lào Cai).
Bộ Công Thương cũng đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính có chính sách điều tiết thuế thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng thép có biến động lớn về giá; chỉ đạo Tổng cục Thống kê cung cấp tình hình sản xuất và tiêu thụ thép hàng tháng; chỉ đạo Bộ Xây dựng dự báo và cung cấp nhu cầu sắt, thép xây dựng của nền kinh tế trong năm 2021 để cân đối nhu cầu thép cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu các sản phẩm thép các loại giúp các doanh nghiệp ngành thép chủ động trong việc sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm thép nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế cho các doanh nghiệp sản xuất thép.
Về nguồn cung thép xây dựng, Bộ Công Thương khẳng định, với việc một số dự án thép đã đi vào hoạt động như Dự án Liên hợp gang thép Hòa Phát Dung Quất của Tập đoàn Hòa Phát, Dự án Nhà máy luyện thép Nghi Sơn năm 2020 vừa qua nên năng lực sản xuất của thép xây dựng (khoảng 14 triệu tấn) bảo đảm 100% cho nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng như đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu.
Về thép cuộn cán nóng (HRC), hiện tại công suất trong nước đạt khoảng từ 5-6 triệu tấn. Tuy nhiên, trong năm 2020, Việt Nam đã nhập siêu thép cuộn cán nóng đến 9,3 triệu tấn (nhập khẩu 10 triệu tấn – xuất khẩu 0,7 triệu tấn). Do vậy, dự kiến trong năm 2021, Việt Nam vẫn tiếp tục phải nhập khẩu một lượng lớn thép cuộn cán nóng để phục vụ nhu cầu sản xuất trong nước.