Ngân hàng - Bảo hiểm
Room tín dụng làm phân hóa lợi nhuận nhà băng; Phát hành trái phiếu doanh nghiệp sụt giảm mạnh
H.T - 11/09/2022 09:39
Tâm điểm ngân hàng tuần qua là các ngân hàng thương mại cổ phần chính thức được Ngân hàng Nhà nước nới room tín dụng. Đây là yếu tố tác động đến lợi nhuận và cổ phiếu ngân hàng.

Tỷ giá, thanh khoản cản đường room tín dụng

Thanh khoản hệ thống có biểu hiện căng cộng với áp lực tỷ giá tăng mạnh trở lại trước thềm Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất khiến NHNN thận trọng nới room tín dụng.  

Đầu tuần này, Ngân hàng Nhà nước chính thức điều chỉnh room tín dụng cho một số ngân hàng thương mại. Theo đó, có khoảng 14-15 tổ chức tín dụng được điều chỉnh tăng room tín dụng với mức tăng từ xấp xỉ 1% tới 4%. Xét về con số tuyệt đối, hạn mức tăng tín dụng lớn nhất thuộc nhóm Big 4, với tổng hạn mức tín dụng được tăng thêm xấp xỉ khoảng 100.000 tỷ đồng.

Cụ thể, Vietcombank được thêm 2,7% room tín dụng, tương đương có thêm hạn mức khoảng 32.000 tỷ đồng bơm ra nền kinh tế. Agribank được tăng tín dụng thêm 3,5%, tương ứng dư địa tăng tín dụng thêm khoảng 50.000 tỷ đồng. VietinBank và BIDV tổng cộng có thêm gần 20.000 tỷ đồng hạn mức tín dụng mới.

Ở nhóm ngân hàng TMCP tư nhân, room tín dụng được cấp phổ biến quanh mức 3%. Tuy nhiên, do quy mô tín dụng nhỏ, kể cả các ngân hàng tư nhân lớn, thì hạn mức tín dụng tăng thêm chỉ trên 10.000 tỷ đồng, còn ở ngân hàng TMCP nhỏ, hạn mức tín dụng tăng thêm chỉ 1.000 - 2.000 tỷ đồng.

Như vậy, nhiều khả năng, trong đợt cấp room tín dụng lần này, Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa “xài” hết room tăng trưởng của cả năm là 14%. Việc Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh room tín dụng dè dặt, theo nhiều chuyên gia là “như muối bỏ bể” so với cơn khát vốn của doanh nghiệp hiện nay.

Ông Nguyễn Hữu Huân, Trưởng Bộ môn Tài chính (Đại học Kinh tế TP.HCM) cho rằng, không chỉ nên cấp hạn mức tín dụng còn lại của năm, NHNN nên mạnh dạn nới room tín dụng lên trên 14%.

“Muốn kích cầu, phục hồi nền kinh tế, thì phải nới thêm room tín dụng để đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Tất nhiên, việc của Ngân hàng Nhà nước là làm sao để dòng vốn này không bị lệch pha, phải rót vào lĩnh vực sản xuất, thay vì bất động sản”, ông Huân nói.

Theo chuyên gia này, nửa đầu năm nay, Ngân hàng Nhà nước đặt nặng mục tiêu kiểm soát lạm phát hơn thúc đẩy tăng trưởng là phù hợp, song 6 tháng cuối năm, chính sách tiền tệ cần ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng. Đồng thời, có thể chấp nhận lạm phát tăng lên 5-6% để không bỏ lỡ thời cơ phục hồi kinh tế. Lý do là tăng trưởng luôn có độ trễ 1-2 quý, vì vậy tín dụng phải nới từ bây giờ thì nền kinh tế cuối năm nay và đầu năm sau mới có thể cất cánh.

Tuy vậy, nhiều chuyên gia tỏ ra thông cảm với sự thận trọng của Ngân hàng Nhà nước. TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng, Ngân hàng Nhà nước nên giữ chính sách hiện nay (giữ nguyên room tín dụng) đến hết quý III/2022. Các động thái điều chỉnh nên bắt đầu từ quý IV/2022 khi các động thái của Fed và của thị trường rõ ràng hơn.

Hết tháng 8/2022, mức tăng trưởng tín dụng đạt 9,91% - cao hơn nhiều so với cùng kỳ hai năm trước. Mặc dù lạm phát những tháng gần đây duy trì ở mức 2,58%, song Phó thống đốc Đào Minh Tú cho biết, các yếu tố về tiền tệ cũng như một số nguyên nhân khác vẫn cần được kiểm soát chặt chẽ. Việc điều hành lãi suất của NHNN lúc này được tính toán một cách chặt chẽ, thận trọng.

Bên cạnh lạm phát, nhiều ý kiến cho rằng, thanh khoản và tỷ giá có dấu hiệu “căng” trở lại là lý do khiến Ngân hàng Nhà nước không mạnh tay nới room tín dụng.

Trên thế giới, đồng bạc xanh đang tăng mạnh và đứng ở mức giá cao nhất trong vòng 20 năm qua. Nhiều khả năng, Fed tiếp tục tăng lãi suất cuối tháng 9 này. Giữa tuần qua (ngày 7/9), Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước đã phải tăng giá bán USD, cho thấy độ nóng của tỷ giá tăng dần.

Thêm vào đó, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tăng mạnh sau kỳ nghỉ lễ 2/9. Lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng đầu tuần này đã lên đến 5,44%/năm, bất chấp Ngân hàng Nhà nước liên tục bơm ròng ra thị trường.

Suốt vài tháng qua, Ngân hàng Nhà nước liên tục bán ngoại tệ, tăng lãi suất trên thị trường OMO để “ghìm” tỷ giá khiến kho dự trữ ngoại hối giảm đáng kể, song USD vẫn tiếp tục đà tăng. 

TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia cho rằng, nguyên nhân khiến tỷ giá và lãi suất liên ngân hàng tăng nóng là do USD trên thế giới tăng giá và áp lực Fed tăng lãi suất, thanh khoản hệ thống trong nước không còn dồi dào.

Dù khẳng định tình hình chưa đáng ngại, song chuyên gia này cho rằng, trong tình hình hiện nay, Ngân hàng Nhà nước chưa thể nới thêm room (lên trên 14%) do phải cân đối nhiều mặt, nhất là lạm phát và thanh khoản.

“Nhu cầu nới room của thị trường là có, song nếu nới room, có thể rơi vào quý IV/2022”, TS. Lực bình luận.

Bài toán khó nhất của Ngân hàng Nhà nước hiện nay là phải vừa kiểm soát lạm phát, vừa hỗ trợ phục hồi phát triển kinh tế. Phó thống đốc Đào Minh Tú cho biết, thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục điều hành lãi suất linh hoạt để đạt được mục tiêu này. Lãi suất trên thị trường 1 và thị trường 2 liên tục tăng, song xét về góc độ tương đối trong tương quan với các nước đang có lãi suất tăng nhanh, thì có thể xem như Việt Nam đang giảm lãi suất điều hành, dù con số tuyệt đối không thay đổi.

Được nới room, tín dụng vẫn khó chảy mạnh 4 tháng cuối năm

Mặc dù 15 ngân hàng đã được nhận thêm hạn mức tín dụng (room), song tỷ lệ nới thêm không nhiều mà mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) kiể soát tăng trưởng tín dụng 14% năm nay.

 Cụ thể, hạn mức tín dụng được cấp của một số ngân hàng nằm trong danh sách được NHNN nới chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng lần này gồm : Sacombank: 4%; Agribank: 3,5%; HDBank: 3,4%; MB và SHB mỗi ngân hàng được nới thêm room tín dụng 3,2%; OCB: 3,1%; VIB (3%), Techcombank, Vietcombank (2,7%)...

Các nhà băng còn lại được NHNN cấp hạn mức tín dụng thấp hơn trên dưới 1%. Được biết, lần này NHNN nới room cho 15 ngân hàng có đề nghị xin nới thêm room tín dụng trước đó.

Đây cũng là lần đầu tiên NHNN đồng loạt nới hạn mức tín dụng cho một số tổ chức tín dụng trong năm nay. Các năm trước, nhà điều hành thường có 1-2 đợt nới room trong năm, sau khi đã giao mức trần cho từng đơn vị vào đầu năm.

NHNN cũng cho hay, việc điều chỉnh room tín dụng đợt này của ngân hàng vẫn dựa trên đơn đề nghị của các ngân hàng thương mại và căn cứ điểm xếp hạng của NHNN.

Cụ thể, NHNN cho biết, đã thông báo tăng trưởng tín dụng năm 2022 cho từng TCTD trên cơ sở: Kết quả xếp hạng từng tổ chức tín dụng theo quy định tại Thông tư 52 (đã được sửa đổi, bổ sung); xem xét một số yếu tố cụ thể hóa chủ trương, định hướng điều hành của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước như tổ chức tín dụng tham gia hỗ trợ xử lý các TCTD yếu kém; giảm lãi suất cho vay hỗ trợ doanh nghiệp và người dân; tín dụng vào lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro…

NHNN cũng cho hay, hết tháng 8/2022, mức tăng trưởng tín dụng đạt 9,91% - cao hơn nhiều so với cùng kỳ hai năm trước. Các nhà băng gần đây cũng đã chạm trần tăng trưởng tín dụng được cấp từ đầu năm khiến người dân và doanh nghiệp khó tiếp cận vốn vay.

Ông Đào Minh Tú, Phó Thống đốc thường trực Ngân hàng Nhà nước nhấn mạnh, mục tiêu là duy trì tỷ lệ lạm phát dưới 4%, tăng trưởng GDP từ 6%-6,5%. Từ các chỉ tiêu này, NHNN đã tính toán, cân nhắc và đưa ra chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng là 14%.

Chỉ tiêu này cũng được đặt ra từ đầu năm trong bối cảnh nền kinh tế không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bất lợi như cuộc xung đột Nga-Ukraine, đứt gãy chuỗi cung ứng gây tăng giá nguyên vật liệu...

Theo ông Tú, hiện tại kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ cao nhất. Nhưng đến nay, tốc độ tăng trưởng tín dụng là 9,91%, cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm ngoái và các ngân hàng đã sử dụng hết hạn mức được giao trong đầu năm.

Hạn mức tăng trưởng tín dụng là vấn đề liên tục tăng cao trong thời gian qua khi nhiều ngân hàng đã sử dụng hết số được cấp ngay từ những quý đầu năm dẫn đến tình trạng dư vốn nhưng không thể cho vay mới.

Tuy nhiên, dư địa cho vay còn lại trong 4 tháng cuối năm cũng rất hạn chế, vì room được tín dụng được nới thêm không nhiều và  phần lớn do các nhà băng đã tăng trưởng tín dụng mạnh từ nửa đầu năm.

Cụ thể, tịa Vietcombank cho biết, hạn mức tín dụng mới của cả năm sau khi được cấp thêm 2,7%, tức tính tổng từ đầu năm hạn mức tín dụng mà ngân hàng này đã nhận được là là 17,7%.

Tuy nhiên, đến hết tháng 8/2022, Vietcombank này đã tăng trưởng tín dụng 14,7% so với đầu năm 2022. Do đó, ngân hàng còn dư địa cho vay mới tối đa khoảng 32.000 tỷ đồng trong 4 tháng còn lại của năm.

Hay tại Sacombank, tính trên tổng quy mô dư nợ hơn 400.000 tỷ đồng vào cuối quý II/2022, với room tín dụng được cấp thêm 4% nhà băng này còn dư địa tăng trưởng hơn 11.000 tỷ đến hết năm nay.

Lãnh đạo NHNN cho rằng, trong bối cảnh hiện nay cũng là cơ hội để các ngân hàng cơ cấu lại nguồn vốn tín dụng. Về tăng trưởng tín dụng chung của ngành ngân hàng cả năm 2022 là tăng trưởng khoảng 14%.

Mục tiêu của NHNN là hướng vốn vào các lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát chặt tín dụng lĩnh vực rủi ro cũng như điều tiết dòng tiền để kiểm soát được mục tiêu lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô...

Với room tín dụng được cấp mới hạn chế, lãnh đạo một số ngân hàng cho biết, họ sẽ cố gắng “xoay sở” trong dư địa còn lại. Theo đó, giải pháp đầu tiên mà lãnh đạo các ngân hàng này nhắc tới là đẩy mạnh thu hồi các khoản nợ đã đến hạn để mở rộng thêm dư địa cho tín dụng mới.Tuy nhiên, giải pháp này là khá hạn chế vì còn tùy thuộc vào khả năng trả nợ của khách hàng. Giải pháp thứ hai là đẩy nhanh tốc độ quay vòng vốn.

Có nghĩa, chỉ xem xét cho vay ngắn hạn, các khoản cho vay tiêu dùng trong thời gian ngắn từ 1-3 tháng, đồng thời hạn chế tối đa cho vay dài hạn. Cuối cùng là đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ, bán chéo sản phẩm, kinh doanh bảo hiểm… tăng nguồn thu ngoài lãi.

Phát hành TPDN tháng 8 sụt giảm, một số doanh nghiệp bắt đầu khó khăn trả nợ

Giá trị phát hành TPDN tháng 8/2022 giảm tới 84% so với cùng kỳ khi cả doanh nghiệp và nhà đầu tư đều thận trọng ngóng đợi chính sách. Một số doanh nghiệp bắt đầu khó khăn trả nợ.

 Thống kê của FiinGroup cho thấy, trong tháng 8 vừa qua, thị trường TPDN chứng kiến sự sụt giảm rõ rệt trong khối lượng phát hành.

Cụ thể, giá trị phát hành trong tháng đạt 9,4 nghìn tỷ đồng, giảm lần lượt 84% so với cùng kỳ và 58% so với tháng trước đó. Đây cũng là tháng phát hành thấp nhất cả năm trên thị trường TPDN và còn thấp hơn cả tháng 2, thời điểm Tết vốn có tính chu kỳ với khối lượng thấp.

Các chuyên gia phân tích FiinGroup cho rằng, nguyên nhân dẫn tới tình trạng này chủ yếu do sự cẩn trọng và chờ đợi các chính sách mới từ cả phía nhà đầu tư lẫn nhà phát hành.

Theo đó, không chỉ nhà phát hành thận trọng mà chờ đợi những thay đổi về chính sách để có phương án phù hợp mà nhà đầu tư cá nhân cũng không mấy mặn mà với các lô trái phiếu đang được chào bán bởi chưa thể nắm rõ các quy định và hướng dẫn trong trường hợp như nếu không được xác định là nhà đầu tư chuyên nghiệp thì có được giao dịch thứ cấp với trái phiếu đang nắm giữ hay không.

Bên cạnh đó, lãi suất TPDN chưa thực sự hấp dẫn và cầu TPDN giảm mạnh từ phía ngân hàng cũng là lý do khiến thị trường ảm đạm.

Các ngân hàng không thực sự có nhu cầu mua TPDN khi đã đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn theo quy định tại Thông tư 08/TT-NHNN và tuân thủ Thông tư 16/TT-NHNN về tín dụng TPDN của Ngân hàng Nhà nước cũng như chờ đợi việc nới room tín dụng để có thể giải ngân cho vay trong những tháng cuối năm.

Dữ liệu của FiinGroup cho thấy, hoạt động phát hành trong tháng hiện đang rất ảm đạm và chỉ còn hoạt động chủ yếu của các ngân hàng. Các đợt phát hành lớn nhất của tháng 8/2022 thuộc về Vietcombank (1.500 tỷ đồng), Công ty Cổ phần Fuji Nutri Food và HDBank cùng đạt 1 nghìn tỷ VNĐ.

Ngân hàng là quán quân phát hành TPDN doanh nghiệp bất động sản tốt vẫn huy động vốn thành công

Về cơ cấu, trong tháng 8/2022, các tổ chức tín dụng tiếp tục dẫn đầu thị trường với tổng cộng 159 đợt phát hành, đạt quy mô là 7,24 nghìn tỷ VNĐ, chiếm 77% thị trường sơ cấp. Dù vậy, so với tháng trước, phát hành trái phiếu của tổ chức tín dụng sụt giảm đáng kể cả về tỷ trọng phát hành lẫn giá trị phát hành, giảm lần lượt 12% và gần 3 lần.

Các lô trái phiếu ngân hàng có kỳ hạn trải rộng từ 1 năm đến 7 năm, cho thấy nhu cầu vốn vẫn đa dạng mặc dù gặp nhiều hạn chế trước thời điểm nới room tín dụng. FiinGroup cho rằng với việc nới room trong tháng 9, hoạt động phát hành từ các ngân hàng sẽ nhanh chóng sôi động trở lại trong những tháng cuối năm.

Nhóm ngành bất động sản đã có diễn biến tích cực hơn khi giá trị phát hành tăng gấp 4,3 lần so với tháng trước, trong đó có 56% thuộc về Công ty Cổ phần Fuji Nutri Food với lô trái phiếu 1 nghìn tỷ đồng đáo hạn vào 12/08/2023. Các thông tin cụ thể về mục đích sử dụng vốn, tài sản đảm bảo và lãi suất trái phiếu không được công bố.

Số liệu phát hành TPDN khối bất động sản tăng trong tháng 8/2022 cho thấ, doanh nghiệp bất động sản có hồ sơ tín dụng tốt và minh bạch vẫn huy động được trái phiếu. Ngoài Fuji Nutri Food huy động thành công 1.000 tỷ đồng thì còn có Nhà Khang Điền (KDH) cũng huy động thành công 800 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 3 năm, lãi suất cố định 12%/năm.

Mục đích huy động của Nhà Khang Điền là nhằm tăng vốn điều lệ cho Công ty TNHH Tư vấn Quốc tế, qua đó góp vốn vào Công ty TNHH Đầu tư Kinh doanh Bất động sản Bình Trưng, đơn vị sở hữu dự án Clarita Khang Điền Bình Trưng. Dự án này dự kiến mở bán vào cuối năm nay và trong năm 2023, có quy mô 5,8 ha và và hiện đang chờ Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất.

Được biết, Nhà Khang Điền đã được FiinRatings thực hiện xếp hạng tín nhiệm tổ chức phát hành lần đầu vào tháng 4/2022 và hiện đang được duy trì mức điểm xếp hạng BBB+ và triển vọng Ổn định. 

Theo FiinGroup, các doanh nghiệp bất động sản có rủi ro pháp lý dự án thấp, với dự án chuẩn bị hoàn thành và mở bán cùng sự tham gia của các đối tác nước ngoài và vị trí mở bán hấp dẫn vẫn có nhiều cơ hội và động lực để thu hút nguồn vốn trên thị trường TPDN.

Tuy vậy, các chuyên gia phân tích của Fiin Group lưu ý nhà đầu tư cá nhân: thời gian qua là một số doanh nghiệp có tên trong ngành xây dựng bao gồm CTCP Đầu tư Xây dựng Trường Khải, CTCP Xây dựng Minh Trường Phú và CTCP Xây dựng Kiến Hưng Thịnh phát hành TPDN. Mặc dù được xếp vào ngành xây dựng, song các doanh nghiệp này phát hành TPDN phục vụ trực tiếp vào việc phát triển các dự án bất động sản trong đó các tổ chức tín dụng là bên mua và/ hoặc quản lý tài sản đảm bảo.

“Theo chúng tôi, đây là điểm quan trọng nhà đầu tư cá nhân chuyên nghiệp cần quan tâm đánh giá doanh nghiệp phát hành này và các rủi ro của dự án một cách kỹ lưỡng, nhất là trong bối cảnh thông tin về các tổ chức phát hành và mục đích sử dụng vốn không được công bố rõ ràng”, FiinGroup khuyến nghị.

Thị trường TPDN ảm đạm trong tháng 8/2022 trong bối cảnh áp lực đáo hạn gia tăng thời gian qua đã làm cho một số doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc đáp ứng nghĩa vụ nợ vay.

Theo FiinGroup, tình trạng này có thể sẽ còn xảy ra với một số trường hợp khác khi mà phần đông tổ chức phát hành trong 2-3 năm trước là các doanh nghiệp chưa niêm yết bao gồm công ty dự án có sức khỏe tài chính yếu, chưa có lịch sử kinh doanh và dòng tiền ổn định. Do đó, hồ sơ tín dụng chưa được tốt hoặc chưa đáp ứng tiêu chí vay tín dụng ngân hàng hoặc huy động nguồn vốn khác trong bối cảnh hiện nay.

Mặc dù vậy, chuyên gia phân tích FiinGroup cũng cho rằng, chúng ta nên nhìn nhận vấn đề này một cách thực tế và công bằng. Bởi các trường hợp này được gọi là “vỡ nợ” nhưng thực sự giống nợ xấu nhóm 3 của các ngân hàng thương mại (nợ dưới tiêu chuẩn).

Ở Trung Quốc, thị trường TPDN có quy mô gần 7,8 ngàn tỷ USD, tương đương gần 44% GDP và tỷ lệ Nợ có vấn đề ở mức 1,4% trên tổng quy mô thị trường TPDN. Tỷ lệ nợ xấu TPDN này là không quá lớn nhưng nếu chỉ tính nhóm trái phiếu có tính đầu cơ thì tỷ lệ có vấn đề đã tăng lên 28,6% vào năm 2021 và được Goldman Sachs dự báo sẽ tăng lên 31,6% vào cuối năm 2022 sau những biện pháp cứng rắn của Chính phủ Trung Quốc trong 2 năm qua.

Nhìn sang Thái Lan, tỷ lệ vỡ nợ cũng ở mức 1,07% vào năm 2020 và riêng các trái phiếu có tính đầu cơ có mức xếp hạng tín nhiệm ở mức BB trở xuống cũng lên đến 9,01% sau khoảng thời gian 1 năm. Dù vậy, thị trường vẫn vận hành ổn định và phát triển bình thường.

Bất chấp thị trường ảm đạm và nợ xấu TPDN xuất hiện, FiinGroup vẫn duy trì kỳ vọng vào một sự hồi phục và tăng trưởng của thị trường khi các yếu tố vĩ mô vẫn đang tích cực và có nhiều triển vọng.

Mới đây, Moody’s đã nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam từ mức Ba3 lên mức Ba2, triển vọng Ổn định, qua đó tiếp tục khẳng định vị thế chỉ có bốn quốc gia được tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế này nâng hạng từ đầu năm đến nay.

Cùng với đó, Ngân hàng Nhà nước cũng đã điều chính nới room tín dụng cho 15 ngân hàng thương mại, tạo điều kiện cho tín dụng vào sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực ưu tiên, cũng là yếu tố hỗ trợ cần thiết để có thể duy trì dòng vốn cho các doanh nghiệp trước khi quy định mới về TPDN được ban hành và có hiệu lực.

Room tín dụng tác động lợi nhuận ngân hàng cuối năm, cơ hội chỉ tập trung một số cổ phiếu

Báo cáo của FiinGroup cho thấy, triển vọng lợi nhuận cuối năm của các ngân hàng không giống nhau, tùy thuộc nhiều yếu tố. Theo đó, cơ hội với các mã cổ phiếu vua cũng không giống nhau.

NHNN đang chuẩn bị cấp room tín dụng cho một số ngân hàng trong hạn mức ít ỏi còn lại của năm. Theo FiinGroup, việc nâng hạn mức tín dụng sẽ được thực hiện chọn lọc ở một số ngân hàng tùy theo chất lượng tín dụng.

Tính đến 30/6/2022, tín dụng của 27 ngân hàng niêm yết tăng 10,1% so với đầu năm, cao hơn mức 7,3% của năm 2021 và 4,2% của năm 2020 nhờ tín dụng phục hồi sau dịch Covid-19 và nền thấp của năm 2021. Tính riêng trong quý 2/2022, dư nợ cho vay khách hàng tăng 3,6% so với quý trước trong khi trái phiếu doanh nghiệp giảm -7,4%.

NHNN hiện vẫn đang điều hành dựa trên hạn mức tín dụng đã cấp từ đầu năm (14%) và trên thực tế, đa phần các ngân hàng đã sử dụng hết room được cấp, cho thấy bức tranh tăng trưởng tín dụng 6 tháng cuối năm có thể rất khác biệt với nửa đầu năm.

“Lợi thế tăng trưởng cuối năm sẽ thuộc về những ngân hàng được cấp thêm room tín dụng trong đợt tới”, chuyên gia phân tích FiinGroup nhận định.

Từ đầu năm NHNN không giao hết chỉ tiêu 14% tăng trưởng tín dụng mà chỉ giao khoảng 11,5% room

Phần còn lại (khoảng 3,5%) sẽ ưu tiên tăng trưởng tín dụng cho những ngân hàng: có hệ số an toàn vốn cao; có tỷ lệ cho vay vào lĩnh vực bất động sản thấp; có tỷ trọng đầu tư TPDN thấp và hỗ trợ các hoạt động của NHNN trong việc xử lý các tổ chức tín dụng, giảm lãi vay cho khách hàng bị ảnh hưởng dịch COVID.

Theo thống kê của FiinGroup, có 26/27 ngân hàng niêm yết đặt mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận sau thuế 33% trong năm 2022, nhưng khả năng hoàn thành kế hoạch cả năm tương đối thấp nếu không có thêm hạn mức tín dụng.

Thực tế cho thấy tín dụng tăng mạnh trong nửa đầu năm (tăng 10,1% so với đầu năm), nhưng tỷ lệ hoàn thành kế hoạch lợi nhuận cả năm 2022 của ngành mới ở mức bình quân 51,5%.

Trong bối cảnh này, cho dù định giá P/B khối Ngân hàng hiện đang thấp hơn trung bình 5 năm (1,75x so với 2.0x), nhưng các chuyên gia phân tích FiinGroup cho rằng, cơ hội khó có thể đến với tất cả các cổ phiếu ngân hàng mà sẽ tập trung vào một số nhà băng có tiềm năng tăng trưởng trong nửa cuối năm.

Thứ nhất là các nhà băng có tỷ lệ LDR thấp, từ đó sẽ có điều kiện tăng tỷ trọng cho vay, biêu biểu là VCB, MBB, HDB, VIB.

Thứ hai là các ngân hàng vẫn còn hạn mức tín dụng để đẩy mạnh hoạt động cho vay trong những quý tới, đơn cử như TPB, TCB, VPB, MSB, ACB.

Thứ ba là các ngân hàng có chất lượng tài sản tốt (nợ xấu giảm) và có lợi thế về trích lập dự phòng (chi phí tín dụng giảm), ít chịu áp lực trích lập thời gian tới như: TPB, ACB, MSB, OCB.

Thứ năm là những ngân hàng có tỷ trọng cho vay ngắn hạn cao sẽ có lợi thế khi chuyển đổi sang cho vay dài hạn để tận dụng lãi suất cho vay cao hơn như: BID, VPB, HDB.

Trong quý 2/2022, NIM của các ngân hàng thương mại tăng 13,9 điểm cơ bản lên 3,72% do các ngân hàng có xu hướng chuyển dịch tài sản sinh lãi ngắn hạn sang tài sản sinh lãi dài hạn có mức lãi suất cao hơn:

Tỷ trọng cho vay dài hạn của các ngân hàng tăng 68% so với quý trước trong khi trong khi tỷ trọng cho vay ngắn hạn và trung hạn lần lượt giảm 36,3% và 31,8% so với quý trước, cho thấy hoạt động cho vay tập trung nhiều hơn vào các kỳ hạn dài, đẩy lãi suất cho vay bình quân tăng 0,4%.

Trong quý II/2022, các ngân hàng cũng hạn chế đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp nhằm chuyển dịch hoạt động tín dụng sang cho vay nhiều hơn.

Số liệu của FiinGroup cho thấy, trong quý II/2022, khối lượng TPDN nắm giữ của các ngân hàng niêm yết giảm 4,1% so với quý trước trong khi cho vay khách hàng tăng 3,6%.

Ngoài ra tăng trưởng trái phiếu tổ chức tín dụng trong quý 2/2022 cũng chậm lại so với quý 1/2022 (tăng 5,13% so với mức tăng 8,76%), cũng là minh chứng cho các ngân hàng đang dịch chuyển tài sản ngắn hạn sang tài sản có kỳ hạn dài hơn.

NIM quý II/2022 tăng đáng kể tại một số ngân hàng lớn như BIDV, VietinBank, MB và giảm một số ngân hàng có tỷ trọng cho vay bất động sản cao như Techcombnak, LienVietPostBank hoặc tại hàng đang trong quá trình xử lý nợ VAMC như STB.

Lãi suất cho vay bình quân trong quý 2/2022 có xu hướng tăng trở lại ở hầu hết các ngân hàng như lớn như: Vietinbank, BIDV, MB, VPBank. Một trong những nguyên nhân là do các ngân hàng không còn giảm lãi suất để hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh.

Giữ được tỷ giá, nợ công không bị tác động tiêu cực

Nhờ giữ được tỷ giá và lạm phát, nên nợ công của Việt Nam không bị tác động tiêu cực trước sự mất giá của các loại tiền tệ khác so với USD, thậm chí còn giúp giảm dư nợ chính phủ so với cuối năm 2021.

Ông Võ Hữu Hiển, Phó cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính) cho rằng, USD tăng giá tác động tiêu cực đến những nước vay nợ chủ yếu bằng “đồng bạc xanh” và những nước có đồng nội tệ bị mất giá so với USD. Nói dễ hiểu là, với lượng dư nợ không thay đổi thì phải bỏ ra nhiều tiền hơn để trả nợ, dư nợ không tăng, nhưng quy đổi ra USD thì khối lượng nợ tăng lên.

Việt Nam lại là trường hợp khác. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tháng 8/2022, Chỉ số Giá tiêu dùng (CPI) chỉ tăng 3,6% so với tháng 12/2021 và tăng 2,89% so với cùng kỳ năm trước; CPI bình quân 8 tháng năm 2022 tăng 2,58%; lạm phát cơ bản tăng 1,64%. Chỉ số giá USD tháng 8/2022 chỉ tăng 2,41% so với cùng kỳ năm 2021; bình quân 8 tháng năm 2022 tăng 0,37%. Giữ được tỷ giá và lạm phát, nên nợ công của Việt Nam không bị tác động tiêu cực trước việc mất giá của các loại tiền tệ khác so với USD.

Cũng chính nhờ giữ vững được tỷ giá, nên trong 8 tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu của nước ta đạt 250,8 tỷ USD, tăng 17,3%; kim ngạch nhập khẩu là 246,84 tỷ USD, tăng 13,6%; xuất siêu 3,96 tỷ USD. Nhờ giữ được nhịp độ tăng trưởng xuất - nhập khẩu ở mức rất cao mà lại còn xuất siêu, nên Việt Nam càng có điều kiện kiểm soát được tỷ giá.

 Tính đến ngày 31/12/2021, dư nợ chính phủ ước khoảng 3.283.000 tỷ đồng, trong đó, dư nợ bằng VND chiếm 66,5%; dư nợ bằng USD chiếm chưa đến 14%; dư nợ bằng JPY khoảng 10,5%; dư nợ bằng EUR khoảng 5,5%; các loại ngoại tệ khác khoảng 4%.

Theo tính toán, khi USD tăng khoảng 1,1% so với đầu năm 2022, làm tăng dư nợ chính phủ khoảng 5.000 tỷ đồng so với cuối năm 2021. Nhưng EUR giảm giá mạnh làm giảm dư nợ khoảng 17.000 tỷ đồng. Nhật Bản là nhà tài trợ nước ngoài lớn nhất của Việt Nam, trong 8 tháng đầu năm nay, JPY mất giá mạnh đã giúp làm giảm dư nợ chính phủ khoảng 45.000 tỷ đồng.

Như vậy, chỉ tính riêng biến động tỷ giá của 3 loại đồng tiền chính, gồm USD, JPY và EUR, khiến dư nợ chính phủ tính đến cuối năm 2022 giảm khoảng 57.000 tỷ đồng, giảm 2% so với dư nợ cuối năm 2021.

Dù các loại ngoại tệ trên thế giới có biến động thế nào, thì nợ công của nước ta vẫn bảo đảm, bởi 66,5% dư nợ là bằng VND, nên không lo về sự biến động của tỷ giá. Trong nhiều năm nay, khối lượng vay vốn trong nước (phát hành trái phiếu) của Chính phủ chiếm 90%, vay vốn nước ngoài chỉ chiếm khoảng 10% tổng giá trị vay nợ hàng năm. Các khoản vay trong nước của Chính phủ có xu hướng tăng nhanh và chiếm vai trò chủ đạo; nợ nước ngoài giảm dần đã giúp giảm rủi ro về tỷ giá, đảm bảo an toàn nợ công và an ninh tài chính quốc gia.

Theo đánh giá của Bộ Tài chính, tình hình nợ công và nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ bị tác động không nhiều trước việc tăng giá của USD. Diễn biến dư nợ và nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ vẫn nằm trong tiên lượng từ đầu năm và trong tầm kiểm soát.

Hiệu quả thực thi chính sách tài khóa của Việt Nam được Moody’s ghi nhận là một trong những yếu tố chính đóng góp vào quyết định nâng hạng. Cụ thể, Chính phủ đã triển khai kế hoạch tài chính ngân sách trung hạn, tập trung huy động vốn trong nước từ các nhà đầu tư tổ chức với chi phí thấp, kỳ hạn dài và tiếp tục duy trì thành quả kiểm soát tỷ lệ nợ trên GDP ổn định, thấp hơn tỷ lệ các năm trước và dưới mức trần 60%, trong khi vẫn điều hành chính sách tài khóa linh hoạt để hỗ trợ phục hồi và tăng trưởng kinh tế.

Xu hướng tăng lãi suất

Mặt bằng lãi suất tiền gửi vẫn trong xu hướng tăng trước áp lực lạm phát và lộ trình tăng lãi suất USD của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed). Trong khi đó, room tín dụng hạn chế góp phần đẩy lãi suất đầu ra tăng lên.

Từ đầu tháng 9/2022, nhiều ngân hàng thương mại tiếp tục điều chỉnh biểu lãi suất huy động theo hướng tăng đáng kể, thậm chí có nơi tăng hơn 1% so với trước đó. Theo đó, lãi suất tiền gửi tiết kiệm bằng VND trên cả kênh gửi trực tuyến và gửi tại quầy đều có xu hướng tăng so với hồi đầu tháng trước.

Tại Nam A Bank, lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 8-9 tháng tăng thêm 0,3%/năm, lên 6,9%/năm. Lãi suất kỳ hạn trên 12 tháng đến 36 tháng được ngân hàng này áp dụng mức 7,2-7,4%/năm. Đây được xem là mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm cạnh tranh trên thị trường hiện nay. Một số ngân hàng khác cũng có mức lãi suất huy động cao nhất trên 7%/năm như SCB với 7,55%/năm; Kienlongbank với 7,3%/năm; Techcombank với 7,1%/năm...

Mới đây, MB điều chỉnh tăng mạnh lãi suất kỳ hạn 24 tháng thêm 0,95%/năm so với hồi đầu tháng 8, lên 6,7%/năm. Lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 6 và 12 tháng của MB cũng tăng lần lượt 0,43%/năm và 0,53%/năm, lên các mức 5,3%/năm và 6,1%/năm.

Nhưng lãi suất huy động cao nhất hiện nay thuộc về ABBank, với 8,8%/năm kỳ hạn 13 tháng, tăng 0,5%/năm so với biểu lãi suất niêm yết trước đó. Đây cũng là mức lãi suất tham chiếu cho các khoản vay tại ngân hàng này.

Trong khi đó, SeABank áp dụng mức lãi suất cao nhất 7,85%/năm áp dụng cho chứng chỉ tiền gửi dài hạn bằng VND, với mệnh giá tối thiểu từ 100 triệu đồng kỳ hạn 36 tháng. Lãi suất cho sản phẩm này kỳ hạn 24 tháng là 7,7%/năm.

Các nhà phân tích của Công ty Chứng khoán Everest (EVS) cho rằng, dưới áp lực tăng lãi suất toàn cầu và tỷ giá trong thời gian qua, mặt bằng lãi suất huy động đã nhích lên đáng kể so với đầu năm nay. Lãi suất cho vay của các ngân hàng vì thế đã tăng trong khoảng 30-70 điểm cơ bản từ đầu năm tới nay trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng nhanh.

EVS kỳ vọng, xu hướng tăng lãi suất huy động sẽ tiếp tục duy trì trong nửa cuối năm 2022, trong khi lãi suất cho vay có thể giảm 25-50 điểm cơ bản nhờ gói cấp bù lãi suất 2% của Chính phủ, nhưng điều này xem ra rất khó xảy ra.

Theo TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia tài chính - ngân hàng, lạm phát Việt Nam đang gia tăng, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang rơi vào thế khó. NHNN yêu cầu các ngân hàng phấn đấu giảm lãi suất để hỗ trợ phục hồi kinh tế, nhưng nếu lạm phát tăng cao, thì mặt bằng lãi suất khó tiếp tục duy trì ở mức thấp như hiện nay, nhất là khi USD tăng áp lực lên tỷ giá.

Sở dĩ lãi suất tiết kiệm tăng trong thời gian qua và chưa có dấu hiệu dừng lại là do tín dụng tăng nhanh. Số liệu của NHNN cho thấy, nửa đầu năm nay, tín dụng toàn nền kinh tế đạt trên 11,4 triệu tỷ đồng, tăng 9,35% (cùng kỳ năm 2021 tăng 6,47%). Trong khi đó, huy động vốn đạt trên 11,8 triệu tỷ đồng, tăng 4,51% so với cuối năm 2021 (cùng kỳ năm 2021 tăng 4,09%).

So sánh tốc độ tăng trưởng 2 chỉ tiêu cho vay và huy động vốn cho thấy, mặc dù tốc độ tăng trưởng tín dụng tăng nhanh hơn nhiều so với cùng kỳ năm trước, nhưng tốc độ tăng trưởng vốn huy động tăng nhanh hơn không đáng kể so với cùng kỳ. Vì thế, nhiều nhà băng đã đồng loạt tăng lãi suất tiết kiệm, dao động khoảng 5,5 - 7,55%/năm với kỳ hạn 12 tháng, cao hơn khoảng 0,7% so với đầu năm.

Chuyên gia tài chính Huỳnh Trung Minh nhận định, lãi suất huy động tăng nhằm đáp ứng Hệ số an toàn vốn (CAR) để tránh việc mất cân đối tỷ lệ huy động vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn. Đồng thời, tăng lãi suất huy động còn để kích thích người dân gửi tiền vào ngân hàng, khi tốc độ huy động vốn từ đầu năm đến nay thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng tín dụng.

Bắt đầu từ tháng 10/2022, tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài hạn sẽ phải giảm xuống 34% theo quy định của Thông tư 08/2020/TT-NHNN. Phía NHNN không có động thái nào cho thấy có thể cho phép kéo dài thời hạn này, nên các ngân hàng vào thế buộc phải gồng mình để đáp ứng các yêu cầu mới và đang phải tăng mạnh lãi suất tiền gửi kỳ hạn dài từ 12 tháng trở lên, nhằm huy động vốn dài ngày cơ cấu lại nguồn trước khi bước vào tháng 10/2022.

Các dự báo đưa ra đều cho thấy, lãi suất đầu vào còn tăng. SSI dự báo lãi suất huy động có thể tăng thêm 50 - 70 điểm cơ bản, nếu hạn mức tín dụng được nới thời gian tới. Như vậy, lãi suất huy động trong cả năm 2022 có thể tăng 1 - 1,5%.

Lãnh đạo một ngân hàng cho biết, việc tăng lãi suất huy động còn nhằm chuẩn bị nguồn vốn cho vay dịp cuối năm ngay khi được NHNN bổ sung hạn mức tăng trưởng tín dụng, giải ngân gói vốn hỗ trợ 2% lãi suất. Theo TS. Cấn Văn Lực, lãi suất huy động tăng giúp hút bớt lượng tiền đang lưu thông trong nền kinh tế để điều hướng nhiều hơn vào sản xuất - kinh doanh. Nhờ đó, thanh khoản hệ thống ngân hàng tương đối ổn, dù không được dồi dào như những năm vừa qua.

Thế nhưng, trước áp lực chi phí đầu vào tăng, lãi suất cho vay khó có thể đứng yên, nhất là cho vay mua nhà hiện ở mức 12%/năm chưa phải là cao. Nhiều khách hàng cá nhân đã phải trả lãi vay vốn mua nhà 13-14%/năm trong khoảng một tháng trở lại đây khi chi phí tăng và room tín dụng cạn.

Tin liên quan
Tin khác