Tín dụng tháng 4/2023 chỉ tăng 0,15%, Ngân hàng Nhà nước đã mua vào 6 tỷ USD từ đầu năm
Ngày 5/5, Chính phủ họp phiên thường kỳ để đánh giá tình hình kinh tế, xã hội trong tháng 4/2023, 4 tháng đầu năm và những giải pháp trong thời gian tới.
Phát biểu tại phiên họp, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho hay, tính đến ngày 25/4, tín dụng tăng 2,75% so với cuối năm 2022. Báo cáo Ủy ban Kinh tế Quốc hội trước đó, Ngân hàng Nhà nước cho biết tín dụng đến cuối tháng 3/2023 tăng 2,6%. Như vậy, tín dụng trong tháng 4/2023 chỉ tăng 0,15%.
Tín dụng tăng chậm trong bối cảnh room tín dụng dư thừa, thanh khoản hệ thống ngân hàng dồi dào, theo Thống đốc là do sức hấp thụ vốn của nền kinh tế thấp.
Nguyên nhân dẫn tới tình trạng này là: Các doanh nghiệp không có đầu ra, đơn hàng giảm nên nhu cầu và vốn giảm, có những doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn nhưng do suy yếu trong thời gian chịu tác động bởi Covid-19 nên không đủ điều hiện vay vốn; Tín dụng bất động sản gặp khó khăn chủ yếu do yếu tố pháp lý nên tăng không cao như thời gian trước đây (tín dụng bất động sản tăng 3,51%);
Đối với gói tín dụng 120.000 tỷ đồng, Ngân hàng Nhà nước đã có văn bản hướng dẫn các ngân hàng, 4 ngân hàng thương mại nhà nước đã chuẩn bị vốn để sẵn sàng cho vay khi các địa phương công bố các dự án (Bộ xây dựng đã có văn bản hướng dẫn các địa phương về tiêu chí, điều kiện để xác định dự án).
Về tỷ giá và thị trường ngoại hối, Ngân hàng Nhà nước theo dõi sát tình hình, chủ động điều hành trên cơ sở kết hợp các công cụ chính sách tiền tệ với điều hành linh hoạt tỷ giá trung tâm. Kết quả cho thấy về cơ bản, tỷ giá được ổn định, Ngân hàng Nhà nước mua khoảng 6 tỷ USD từ đầu năm tới nay. Điều này đồng nghĩa với việc Ngân hàng Nhà nước đưa tiền ra nền kinh tế cùng với các kênh khác của chính sách tiền tệ.
Từ sự sụp đổ của loạt ngân hàng Mỹ: Không nên dựa quá nhiều vào tín dụng để tăng trưởng kinh tế
Tại cuộc họp, Thống đốc cũng đưa ra 2 kiến nghị.
Trước hết, theo Thống đốc, cần có giải pháp để khai thác cầu nội địa nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì tăng trưởng kinh tế của Việt Nam phục thuộc rất lớn vào xuất khẩu (cầu nước ngoài, tỷ lệ Xuất khẩu/GDP gần 100%), nên trong điều kiện các nước vẫn còn thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt thì khả năng cải thiện cầu nước ngoài không thể nhanh được.
Số liệu cho thấy tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng vẫn có mức tăng trưởng cao hơn cùng kỳ, loại trừ giá tăng 8,3% trong khi 4 tháng năm 2022 chỉ tăng 3,9% (khách quốc tế đến Việt Nam tăng 19,2 lần cùng kỳ năm ngoái). Đây là yếu tố giúp hỗ trợ tăng trưởng kinh tế thời gian qua và cần được quan tâm khai thác cầu nội địa.
Bên cạnh đó, Thống đốc cũng cho rằng, việc thúc đẩy tín dụng để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế cần hài hòa với mục tiêu đảm bảo an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng. Thời gian qua, tín dụng tăng chậm không chỉ ở Việt Nam; khi các ngân hàng Mỹ sụp đổ, lan sang châu Âu, các ngân hàng tại nhiều quốc gia cũng thận trọng hơn khi cho vay, để đảm bảo thanh khoản, sẵn sàng chi trả cho người gửi tiền.
Theo đánh giá của một số nhà phân tích, sự sụp đổ của SVB và First Republic Bank - hai ngân hàng Mỹ có quy mô tổng tài sản trên 200 tỷ USD - không phải do thua lỗ. Hai ngân hàng này đã có lãi ít nhất trong 53 quý liên tục kể từ năm 2010 đến nay, với nợ xấu thấp dưới 0,2%, giá trị trích lập dự phòng rủi ro gấp 4,6 lần quy mô nợ xấu).
Nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ chính là các ngân hàng này đầu tư vào các tài sản kỳ hạn dài, dễ mất giá trong môi trường lãi suất tăng. Bởi vậy, đối với trường hợp của Việt Nam, không nên dựa quá nhiều vào tăng trưởng tín dụng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhất là tín dụng dài hạn, mà thay vào đó, để thúc đẩy tăng trưởng cần thúc đẩy đầu tư công và các nguồn vốn khác để đảm bảo hài hòa giữa các mục tiêu kinh tế vĩ mô, tiền tệ.