Dù Việt Nam là quốc gia thích ứng nhanh với việc chuyển đổi số cả về bộ máy hành chính cũng như của người dân song hiện vẫn còn đó nhiều thách thức. |
Vừa qua, Viện Quốc tế Pháp ngữ, Đại học quốc gia Hà Nội (IFI) phối hợp với Tổ chức quốc tế Pháp ngữ (OIF), Tổ chức Đại học Pháp ngữ (AUF), Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp Quốc (UNIDO) tổ chức sự kiện Franconomics III - 2021 với chủ đề: “Những thách thức của chuyển đổi số với việc tiếp cận công bằng các dịch vụ thiết yếu trong thời đại Covid-19”.
Tại sự kiện, Đại sứ Pháp tại Việt Nam Nicolas Warnery đánh giá, cuộc khủng hoảng toàn cầu do đại dịch Covid-19 đã gây ra những hậu quả cực kỳ mạnh mẽ không chỉ về vấn đề việc làm, mà còn về khả năng di chuyển do các biện pháp giãn cách xã hội, ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận các dịch vụ công.
Tuy nhiên, nhờ công nghệ kỹ thuật số, chúng ta đã thành công trong việc duy trì, đặc biệt là thông qua giáo dục trực tuyến, nhưng đôi khi ở những vùng sâu, vùng xa cũng gặp khó khăn khi tiếp cận giáo dục trực tuyến và cơ sở hạ tầng y tế còn thiếu.
Với các lớp học từ xa, nền tảng trực tuyến và nội dung kỹ thuật số thông qua máy tính bảng hoặc điện thoại thông minh đã phát triển theo cấp số nhân để có thể cung cấp khả năng tiếp cận giáo dục ở mọi nơi và cho tất cả mọi người.
Tuy nhiên, việc chuyển đổi số cũng gây ra những chênh lệch lớn, đặc biệt là với bộ phận dân số “đứng bên lề” của cuộc cách mạng kỹ thuật số với nhiều nguyên nhân.
Bên cạnh đó, Đại sứ Pháp đánh giá Việt Nam là quốc gia thích ứng nhanh với việc chuyển đổi số cả về bộ máy hành chính cũng như của người dân.
Theo đó, Việt Nam có gần 69 triệu người sử dụng internet với dân số 98 triệu người, với mức tăng thêm 550.000 người dùng internet mới từ năm 2020 đến năm 2021. Gần 72 triệu tài khoản trên mạng xã hội và trước hết là Facebook, gần 154 triệu thiết bị di động được kết nối đang lưu hành.
Việt Nam có 8 triệu người tiêu dùng kỹ thuật số mới kể từ khi bắt đầu đại dịch đến nửa đầu năm 2021, 55% trong số đó đến từ các khu vực phi thành thị.
Kể từ khi cuộc khủng hoảng bắt đầu, thương mại điện tử đã tăng trưởng 53% với doanh thu khoảng 21 tỷ USD.
Nền kinh tế kỹ thuật số của Việt Nam ước đạt 57 tỷ USD vào năm 2025 và 220 tỷ USD vào năm 2030, đứng thứ hai trong khu vực, sau Indonesia.
“Đặc biệt, ở cấp chính quyền, thành công của Cổng dịch vụ công quốc gia mặc dù mới ra mắt vào cuối năm 2019, gần một nửa trong số 6.500 thủ tục hành chính được thực hiện trực tuyến. Đến năm 2025, tất cả các dịch vụ công phải có thể truy cập trực tuyến”, Đại sứ Pháp cho biết.
Những con số này chứng tỏ khả năng thích ứng phi thường của người Việt Nam trước những tình huống phức tạp. Tuy nhiên, chúng không tiết lộ sự chênh lệch có thể tồn tại trong dân số, đặc biệt là ở những vùng xa xôi hẻo lánh nhất như truy cập mạng, làm quen với các công cụ kỹ thuật số.
Chuyển đổi số được xem như một đòn bẩy tối ưu mở ra các cơ hội để ổn định và theo đuổi các sứ mệnh chủ quyền của các quốc gia cũng như các hoạt động kinh tế nhà nước và tư nhân.
Bên cạnh đó, quá trình chuyển đổi số đang đặt ra không ít thách thức, đặc biệt trong thời đại Covid-19 hiện nay, khi biên giới đóng cửa, hàng loại chuỗi cung ứng và dịch vụ đứt gãy và rối loạn, hạ tầng kỹ thuật chưa đủ khả năng đáp ứng nhu cầu chuyển đổi số ngay lập tức.
Cũng chính từ đây, sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận công nghệ và hạ tầng kỹ thuật giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ, giữa các khu vực thành thị hay nông thôn đã tạo nên rào cản cho quá trình chuyển đổi số toàn diện và sự phát triển chung của xã hội.
Hơn bao giờ hết, cần đưa ra những định hướng và kế hoạch phù hợp thực tế nhằm đảm bảo việc tiếp cận công bằng công nghệ trong bối cảnh hiện nay.
Về phía Việt Nam, GS.TS. Lê Quân, Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội nhận định, đại dịch Covid-19 khiến các quốc gia bị ảnh hưởng nghiêm trọng cả về kinh tế, văn hoá, đời sống xã hội. Hơn bao giờ hết, thế giới được kêu gọi thích ứng để chung sống với dịch bệnh.
Chính trong thời điểm này, chuyển đổi số đã chứng minh vai trò then chốt của mình trong công cuộc phục hồi nền kinh tế của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Dù vậy, bất chấp những nỗ lực trong hai năm qua, chuyển đổi số trên thực tế vẫn đã và đang tạo ra sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận các dịch vụ thiết yếu ở tất cả các quốc gia bất kể trình độ phát triển.
Chẳng hạn, trong giáo dục, trước đây đi học là phải đến lớp, nhưng khi đại dịch xảy ra, các trường chỉ lúng túng trong một thời gian rất ngắn và sau đó thì gần như toàn ngành Giáo dục đã triển khai dạy học online bằng các phần mềm có tương tác. Thực tế, nhiều chương trình, hệ đào tạo không thua kém so với giáo dục trực tiếp.
Dù đồng tình với quan điểm chuyển đổi số đang tạo ra nhiều cơ hội cho nền kinh tế song TS.Ngô Tự Lập, Viện trưởng IFI cũng lo lắng về những mặt tồn tại của chuyển đổi số đang đặt ra cho tất cả các quốc gia trong và sau thời kỳ Covid-19.
Viện trưởng IFI nhấn mạnh rằng, để giải quyết vấn đề này đòi hỏi không chỉ nỗ lực riêng lẻ của mỗi quốc gia, chính phủ, mà còn cần một mô hình hợp tác mới của tất cả các chủ thể tham gia vào đời sống kinh tế xã hội, nhằm xây dựng một nền kinh tế thông minh, một xã hội thông minh vì một tương lai tươi sáng chung của mọi quốc gia.
Theo chuyên gia này, để chuyển đổi số, cần 2 điều kiện. Thứ nhất, cần có cơ sở dữ liệu tốt thì quá trình số hóa mới nhanh được- tức là chi phí. Thứ hai cần nhân lực. Ngoài ra, cần có chính sách phù hợp, nếu không đảm bảo an toàn và có chính sách tốt thì khó chuyển đổi số.
Một số ý kiến khác thì cho rằng quá trình chuyển đổi số là xây dựng hệ sinh thái số, trong đó cả Chính phủ, người dân và doanh nghiệp đều phải thay đổi.
Các ý kiến đều đồng nhất quan điểm cho rằng, Việt Nam không hề thua kém các nước đang phát triển nào, thậm chí còn rất sáng tạo khi tạo ra các giải pháp phù hợp đặc thù riêng cho thị trường Việt Nam.
Lộ trình chuyển đổi số cho doanh nghiệp tại Việt Nam được khuyến nghị thông qua giai đoạn chuẩn bị và 3 giai đoạn để thực hiện dần từ chuyển đổi số triển khai riêng lẻ, chưa có tính kết nối sang chuyển đổi số hoàn toàn, kết nối và tích hợp đồng bộ với nhau.
Các giai đoạn này là tương đối, tùy vào tình trạng thực tế, mục tiêu và tiềm lực của từng doanh nghiệp, có thể thực hiện song song hoặc nối tiếp nhau.