Ảnh minh hoạ. Nguồn: Internet |
Độc giả Phùng Thành - Đường Hoàng Hoa Thám, quận Ba Đình, TP. Hà Nội đặt câu hỏi như sau: Tôi tham khảo Điểm d, Khoản 2, Điều 64 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP thì: “Thời gian đánh giá hồ sơ dự thầu tối đa là 25 ngày, kể từ ngày mở thầu đến khi bên mời thầu có tờ trình đề nghị phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu kèm theo báo cáo về kết quả lựa chọn nhà thầu”.
Tuy nhiên, Điều 4 Thông tư số 23/2015/TT-BKHĐT ngày 21/12/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định chi tiết lập báo cáo đánh giá hồ sơ dự thầu lại hướng dẫn: “Thời gian đánh giá hồ sơ dự thầu tối đa là 45 ngày đối với đấu thầu trong nước, 60 ngày đối với đấu thầu quốc tế, kể từ ngày có thời điểm đóng thầu đến ngày bên mời thầu trình chủ đầu tư phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu. Thời gian đánh giá hồ sơ dự thầu không bao gồm thời gian thẩm định, phê duyệt, kể cả thời gian thẩm định kết quả đánh giá hồ sơ đề xuất về kỹ thuật đối với gói thầu áp dụng phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ. Trường hợp cần thiết, có thể kéo dài thời gian đánh giá hồ sơ dự thầu nhưng không quá 20 ngày và phải bảo đảm tiến độ thực hiện dự án”.
Vậy, quy định về thời gian đánh giá hồ sơ dự thầu áp dụng theo Nghị định hay Thông tư?
Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau:
Điểm g, Khoản 1, Điều 12 Luật Đấu thầu quy định, thời gian đánh giá hồ sơ dự thầu tối đa là 45 ngày đối với đấu thầu trong nước, kể từ ngày có thời điểm đóng thầu đến ngày bên mời thầu trình chủ đầu tư phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu.
Thời gian đánh giá hồ sơ dự thầu tối đa là 60 ngày đối với đấu thầu quốc tế, kể từ ngày có thời điểm đóng thầu đến ngày bên mời thầu trình chủ đầu tư phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu.
Trường hợp cần thiết, có thể kéo dài thời gian đánh giá hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất nhưng không quá 20 ngày và phải bảo đảm tiến độ thực hiện dự án.
Đối với trường hợp của ông Thành hỏi, thời gian đánh giá hồ sơ dự thầu phải tuân thủ theo quy định nêu trên.
Trường hợp gói thầu có quy mô nhỏ thì thời gian đánh giá hồ sơ dự thầu tối đa là 25 ngày, kể từ ngày mở thầu đến khi bên mời thầu có tờ trình đề nghị phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu theo quy định tại Điểm d, Khoản 2, Điều 64 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ.