Tuy nhiên để có hiệu lực, Nghị quyết này còn phải được Hạ viện Hoa Kỳ bỏ phiếu thông qua và được Tổng thống Obama ký ban hành thành luật. Dẫu vậy thì đây là bước đi đầu tiên quan trọng, tạo đà cho việc tiến tới loại bỏ hoàn toàn Chương trình giám sát cá da trơn.
Chương trình giám sát cá da trơn (Chương trình) lần đầu tiên được luật hóa tại đạo luật Nông trại năm 2008 (Farm Bill 2008). Theo đó, Quốc hội Hoa Kỳ đã đưa cá da trơn (catfish) vào diện kiểm tra bắt buộc vốn đang được áp dụng đối với các loại thực phẩm có nguy cơ cao như thịt đỏ và gia cầm. Điểm gây tranh cãi trong quy định này là các sự cố an toàn thực phẩm diễn ra vào thời điểm đó không liên quan đến cá da trơn, làm dấy lên những nghi ngờ về việc hạn chế nhập khẩu cá da trơn để bảo vệ ngành công nghiệp nuôi cá da trơn của Hoa Kỳ.
Trước những tranh luận trong nội bộ Hoa Kỳ và sự phản đối mạnh mẽ từ phía Việt Nam, chương trình kiểm tra quy định tại đạo luật Nông trại năm 2008 đã không được đưa vào thực thi. Tuy nhiên, đến năm 2014, trong đạo luật Nông trại 2014, chương trình lại tiếp tục được luật hóa với việc xác định rõ phạm vi áp dụng là đối với tất cả các loài cá thuộc bộ Siluriformes. Đây là một sự mở rộng phạm vi áp dụng của chương trình, đưa toàn bộ các sản phẩm cá tra và basa của Việt Nam vào diện kiểm tra bắt buộc.
Trên cơ sở đạo luật Nông trại 2014, ngày 2 tháng 12 năm 2015, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) đã ban hành quy định chính thức về việc áp dụng chương trình giám sát cá da trơn. Theo đó, Chương trình sẽ có hiệu lực kể từ ngày 1/3/2016, với thời gian chuyển tiếp là 18 tháng, và sẽ có hiệu lực toàn phần vào ngày 1/9/2017.
Việc ban hành Chương trình đã đưa cá da trơn từ diện sản phẩm không có nguy cơ cao sang diện sản phẩm có nguy cơ cao, và chuyển trách nhiệm giám sát từ Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) sang Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA).
Trước thời điểm Chương trình được luật hóa, thẩm quyền kiểm soát cá da trơn thuộc về FDA, theo đó, sản phẩm cá da trơn được xếp vào diện không có nguy cơ cao và việc kiểm soát chủ yếu dựa trên trách nhiệm của nhà nhập khẩu.Tuy nhiên khi chuyển sang USDA mọi chuyện sẽ khó khăn hơn.
USDA đã xây dựng cơ chế kiểm soát cá da trơn dựa trên các nguyên tắc kiểm soát thịt đỏ. Theo đó, USDA sẽ phải tiến hành điều tra hệ thống kiểm tra của nước xuất khẩu để xác định rằng hệ thống kiểm tra đó đảm bảo việc tuân thủ của các cơ sở nuôi trồng và sản xuất cá đối với các quy định hiện hành của Hoa Kỳ do USDA áp dụng. Việc điều tra được tiến hành dựa trên 4 tiêu chí gồm năng lực quản lý, các quy định pháp luật về kiểm soát an toàn thực phẩm, hệ thống thực thi và giám sát, và kiểm tra định kỳ. Các tiêu chí trên sẽ đặt toàn bộ hệ thống pháp luật và thực thi liên quan của nước xuất khẩu dưới sự giám sát của USDA.
Theo các chuyên gia của Bộ Công thương, nếu hệ thống kiểm tra được đánh giá là đạt yêu cầu, USDA sẽ đưa quốc gia đó vào diện được phép xuất khẩu các sản phẩm cá thuộc bộ Siluriformes sang Hoa Kỳ. Tuy nhiên, chỉ những cơ sở được chứng nhận của quốc gia đó mới được phép xuất khẩu trực tiếp sản phẩm sang Hoa Kỳ. Để được coi là một cơ sở được chứng nhận, cơ sở đó phải được cán bộ USDA tiến hành kiểm tra, đánh giá, và chứng nhận. Việc kiểm tra, đánh giá, và chứng nhận được tiến hành định kỳ.
Như vậy, việc kiểm soát của USDA được tiến hành song song ở hai cấp độ: cấp quốc gia và cấp cơ sở.
Chưa có bất cứ thống kê chi tiết nào về mức độ chi phí gia tăng đối với việc áp dụng chương trình trên đối với cá tra và cá basa xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, các chi phí về tiếp đón cán bộ USDA, chi phí thí nghiệm, kiểm tra mẫu và các chi phí khác có liên quan không hề nhỏ. Ước tính, việc tuân thủ các quy định của USDA sẽ làm gia tăng ít nhất 10% giá thành sản phẩm.
Bên cạnh đó, việc bị USDA đánh giá là không tuân thủ, mà đây là rủi ro cao, sẽ đẩy các cơ sở nuôi trồng và chế biến cá tra và basa của Việt Nam vào diện không thể xuất khẩu sản phẩm sang Hoa Kỳ.