Y tế - Sức khỏe
Tin mới y tế ngày 18/3: Giải pháp mới trong dự phòng RSV cho trẻ nguy cơ cao
D.Ngân - 18/03/2025 09:40
Virus hợp bào hô hấp (Respiratory Syncytial Virus - RSV) là tác nhân hàng đầu gây nhiễm trùng đường hô hấp dưới ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ tại Việt Nam, dẫn đến nhiều bệnh lý nghiêm trọng, thậm chí đe dọa tính mạng.

Giải pháp mới trong dự phòng RSV cho trẻ nguy cơ cao

Thông tin trên được chia sẻ tại Hội thảo chuyên đề “Dự phòng RSV cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ nguy cơ cao” vừa diễn ra. Tại chương trình, hơn 50 chuyên gia, bác sỹ, nhân viên y tế đã chia sẻ kinh nghiệm và thảo luận về những ảnh hưởng của RSV đối với trẻ em và vai trò của liệu pháp dự phòng RSV bằng kháng thể đơn dòng.

Trẻ sơ sinh, đặc biệt là những trẻ có tiền sử suy dinh dưỡng, gia đình có tiền sử dị ứng hoặc hen suyễn, thường xuyên tiếp xúc với khói thuốc lá hoặc sống trong điều kiện đông đúc, có nguy cơ nhiễm RSV cao.

Theo các chuyên gia y tế, RSV là nguyên nhân của 50-90% ca viêm tiểu phế quản và 5-40% ca viêm phổi ở trẻ. Hầu hết trẻ bị nhiễm RSV trong hai năm đầu đời, với tỷ lệ lên tới 85-100%. Đặc biệt, có đến 75-90% trẻ bị nhiễm trong năm đầu tiên, và khoảng 0,5-2% trẻ phải nhập viện để điều trị.

Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), vào năm 2010, Việt Nam ghi nhận 498.411 trường hợp nhiễm RSV ở trẻ từ 0 - 4 tuổi, trong đó 57.086 ca diễn biến nặng. Một nghiên cứu khác tại Trung tâm Nhi, Bệnh viện Trung ương Huế cho thấy 23,33% trường hợp viêm tiểu phế quản ở trẻ là do RSV.

Mùa RSV tại khu vực phía Nam Việt Nam thường kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11 mỗi năm, và những trẻ sinh non, dưới 24 tháng tuổi, hoặc mắc các bệnh lý tim bẩm sinh hoặc loạn sản phổi là nhóm có nguy cơ cao mắc bệnh.

Các triệu chứng của RSV có thể nhẹ như cảm lạnh thông thường (nghẹt mũi, ho, sổ mũi), nhưng có thể trở nên nghiêm trọng và gây biến chứng như viêm tiểu phế quản hoặc viêm phổi.

Trẻ dưới 6 tuần tuổi hoặc có nguy cơ cao có thể xuất hiện các triệu chứng như quấy khóc, bú kém, mệt mỏi và khó thở. Nếu không được điều trị kịp thời, RSV có thể gây suy hô hấp cấp tính, xẹp phổi, bội nhiễm vi khuẩn và các biến chứng nghiêm trọng khác, thậm chí dẫn đến tử vong.

Trẻ sơ sinh, đặc biệt là những trẻ có tiền sử suy dinh dưỡng, gia đình có tiền sử dị ứng hoặc hen suyễn, thường xuyên tiếp xúc với khói thuốc lá hoặc sống trong điều kiện đông đúc, có nguy cơ nhiễm RSV cao.

Virus này dễ lây lan qua mắt, mũi hoặc tiếp xúc gần với người bệnh, qua các giọt bắn trong không khí, nước bọt hoặc chất nhầy. Điều đáng chú ý là virus có thể tồn tại lên tới 6 giờ trên bề mặt và có thể tồn tại trong cơ thể trẻ em, người suy giảm miễn dịch đến 4 tuần.

PGS-TS.Vũ Huy Trụ, chuyên khoa nhi cho hay, ngoài các biện pháp vệ sinh cá nhân như rửa tay thường xuyên và khử trùng bề mặt, dự phòng miễn dịch bằng kháng thể đơn dòng là một giải pháp hiệu quả để giảm nguy cơ mắc bệnh, đặc biệt là ở nhóm trẻ nguy cơ cao.

Mặc dù vắc-xin phòng RSV vẫn đang trong quá trình nghiên cứu, với 38 loại vắc-xin đang phát triển và 19 loại đang thử nghiệm lâm sàng, hiện tại chưa có vắc-xin được cấp phép để phòng ngừa RSV ở trẻ em. Tuy nhiên, các liệu pháp miễn dịch thụ động, như kháng thể đơn dòng, đã chứng minh hiệu quả trong việc giảm tỷ lệ mắc bệnh nặng.

Kháng thể đơn dòng Palivizumab, được FDA chấp thuận vào năm 1998, là một trong những biện pháp dự phòng hiệu quả nhất cho trẻ có nguy cơ cao mắc RSV. Palivizumab, một kháng thể đơn dòng người, giúp ngăn chặn sự nhân lên của virus và giảm thiểu khả năng nhiễm trùng hô hấp dưới nặng. Liều tiêm được khuyến cáo là 1 liều/tháng (15 mg/kg) trong 5 tháng liên tiếp trong mùa RSV.

Dự phòng bệnh lý do RSV không phải là vấn đề mới, nhưng với sự phát triển của y học hiện đại, việc dự phòng sớm có thể giúp tạo ra một lá chắn bảo vệ cho trẻ, giảm thiểu gánh nặng bệnh tật và cải thiện chất lượng sống cho trẻ. Với sự hỗ trợ của các biện pháp như kháng thể đơn dòng và các chiến lược phòng ngừa, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ có nguy cơ cao có thể được bảo vệ khỏi các biến chứng nghiêm trọng do RSV gây ra.

Hệ quả khó lường từ việc sử dụng hormone chuyển giới

Th., 30 tuổi, đã tiêm hormone nam giới trong một thời gian dài để chuyển giới. Tuy nhiên, khi quyết định ngừng sử dụng hormone nam để thực hiện phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) và mang thai, cơ thể của Th. bị xáo trộn nội tiết đột ngột, dẫn đến xuất huyết âm đạo kéo dài và ngất xỉu.

Vào năm 20 tuổi, Th. bắt đầu tiêm testosterone tại một phòng khám tư để chuyển giới. Hormone này giúp tăng cường các đặc tính nam giới, đồng thời làm giảm sản xuất estrogen, loại hormone liên quan đến đặc điểm nữ tính.

Sau khoảng 2 tháng sử dụng, Th. bắt đầu thay đổi về giọng nói, mất kinh nguyệt và phát triển các đặc điểm nam tính như mọc râu. Sau 5 năm sử dụng hormone, Thoa thực hiện phẫu thuật cắt bỏ ngực để có được bề ngoài như mong muốn.

Sau khi kết hôn, Th. và vợ, H., mong muốn có con. Tuy nhiên, Hà mắc bệnh tan máu bẩm sinh và lo ngại về việc di truyền cho con cái, nên cặp đôi quyết định sẽ lấy trứng của Th. để tạo phôi từ tinh trùng hiến tặng, rồi chuyển phôi vào tử cung của H.. Vì pháp luật Việt Nam không cho phép lấy noãn của phụ nữ này để sinh con cho phụ nữ khác, họ đã quyết định ra nước ngoài thực hiện IVF.

Năm 2023, sau khi ngừng tiêm hormone nam, Th. được bác sỹ bổ sung estrogen và các loại thuốc để kích thích buồng trứng tái hoạt động. Sau 8 tháng điều trị, Thoa có kinh nguyệt trở lại và được kích thích buồng trứng để thụ tinh trong ống nghiệm. Cuối năm 2023, Th. đã tạo được 4 phôi và chuyển phôi vào tử cung của H., giúp cặp đôi có con chung.

Tuy nhiên, sau khi hoàn tất nghĩa vụ cho trứng, Thoa lại bắt đầu tiêm testosterone để quay lại thành nam giới. Tuy nhiên, sau vài tháng sử dụng hormone, kỳ kinh của Th. không mất mà kéo dài thêm từ 7 đến 10 ngày.

Tháng 10/2024, khi kỳ kinh kéo dài hơn nửa tháng, Th. mới đi khám và được chẩn đoán bị lạc nội mạc tử cung do sử dụng nội tiết tố nam lâu dài, gây ra tình trạng xuất huyết âm đạo bất thường.

Thoa được đưa vào viện trong tình trạng ngất xỉu và chảy máu âm đạo. Kết quả siêu âm cho thấy tử cung của Th. to bằng thai 14 tuần, kèm theo u xơ và các nang lạc nội mạc trong lớp cơ. Th. bị thiếu máu nặng, chỉ số hemoglobin giảm xuống còn 3,9g/dl, rất nguy hiểm nếu không được điều trị kịp thời. Sau khi được truyền 4 đơn vị hồng cầu lắng (tương đương 1,4 lít máu), tình trạng của Th. dần ổn định.

Hai ngày sau, Th. được phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn tử cung. Sau cuộc phẫu thuật, Th. hồi phục và có thể tiếp tục bổ sung hormone nam an toàn hơn mà không lo ngại ảnh hưởng đến tử cung.

Theo TS.Nguyễn Thị Yến Thu, chuyên gia sản khoa, việc thay đổi hormone đột ngột có thể gây mất cân bằng trong điều hòa kinh nguyệt. Cơ thể nữ giới bổ sung testosterone có thể khiến niêm mạc tử cung mỏng đi.

Tuy nhiên, khi ngừng thuốc và chuyển sang bổ sung estrogen để kích thích trứng phát triển, niêm mạc tử cung có thể tăng sinh trở lại, dẫn đến biến đổi tế bào. Nếu sau khi hút trứng, Thoa bắt đầu tiêm testosterone trở lại, nội mạc tử cung bị ức chế đột ngột, tăng nguy cơ xuất huyết và các biến chứng nghiêm trọng khác.

Bác sỹ Yến Thu giải thích rằng tình trạng lạc nội mạc tử cung, khi kết hợp với thay đổi hormone liên tục, có thể gây viêm và chảy máu. Chính sự thay đổi hormone quá nhanh gây ảnh hưởng đến chức năng đông máu, dẫn đến tình trạng chảy máu không kiểm soát.

ThS.BS Lê Đăng Khoa, Trưởng đơn vị Hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Quận 8 khuyến cáo rằng phụ nữ muốn chuyển giới nên trữ trứng trước khi dùng hormone chuyển giới nam để bảo vệ khả năng sinh sản trong tương lai. Ngoài ra, sau khi kích trứng, cơ thể cần thời gian nghỉ ngơi khoảng 3-6 tháng trước khi tiếp tục sử dụng testosterone, nhằm tránh biến chứng nghiêm trọng.

Tại Việt Nam, Bộ Y tế chưa cấp phép điều trị chuyển giới, vì vậy, hormone testosterone chỉ được cấp phép cho nam giới để điều trị các bệnh lý suy sinh dục hoặc dậy thì muộn. Tuy nhiên, đối với những người muốn chuyển giới, việc bổ sung hormone phải được giám sát chặt chẽ bởi bác sỹ chuyên khoa để giảm thiểu các biến chứng nguy hiểm.

Điều trị hội bệnh lý hiếm cứu vãn hôn nhân

Một trong những trường hợp điển hình là bệnh nhân H.H.L, 24 tuổi, đã kết hôn được 2 năm. Chị đến khám do cảm giác sợ hãi khi sinh hoạt vợ chồng.

Chị L. mắc phải tình trạng co thắt cơ âm đạo không tự chủ, dẫn đến những cơn đau dữ dội và làm gia tăng khó khăn trong mối quan hệ vợ chồng. Tình trạng này kéo dài đã khiến vợ chồng chị không thể hòa hợp, dẫn đến những mâu thuẫn liên tiếp, khiến hôn nhân của họ đứng trước nguy cơ đổ vỡ.

Sau khi thăm khám, chị L. được chẩn đoán mắc hội chứng "co thắt âm đạo". Với trường hợp này, bác sỹ tại trung tâm đã chỉ định điều trị bằng phương pháp tâm lý trị liệu kết hợp với tình dục liệu pháp.

Trong suốt quá trình trị liệu, bệnh nhân được đội ngũ bác sỹ và điều dưỡng nữ hướng dẫn các bài tập thư giãn cơ âm đạo, áp dụng liệu pháp nhận thức hành vi để giúp chị kiểm soát nỗi sợ hãi và lo lắng. Đồng thời, các phương pháp như giải mẫn cảm sinh dục và nong âm đạo cũng được thực hiện để cải thiện tình trạng bệnh.

Chỉ sau 6 buổi trị liệu, kết quả đã vượt ngoài mong đợi. Chị L. không còn cảm thấy đau đớn hay lo lắng khi quan hệ tình dục, tình trạng co thắt âm đạo cũng không tái phát. Cảm xúc của bệnh nhân dần được điều chỉnh, giúp chị cảm thấy thoải mái hơn và đời sống hôn nhân trở nên viên mãn hơn.

Theo Ths.BS Phạm Minh Ngọc, Phó Giám đốc Trung tâm Y học Giới tính Hà Nội cho biết, hiện nay có 4 phương pháp chính trong điều trị hội chứng co thắt âm đạo, tuy nhiên, tại trung tâm, bác sỹ chủ yếu áp dụng hai phương pháp chính là tâm lý trị liệu và tình dục liệu pháp, với hiệu quả điều trị thành công lên tới 90% sau 4-6 phiên trị liệu.

Co thắt âm đạo không phải là một căn bệnh hiếm gặp, nhưng nhiều phụ nữ vẫn còn ngại ngùng, xấu hổ khi đối mặt với vấn đề này, dẫn đến việc không dám đi khám. Điều này khiến bệnh tình ngày càng trầm trọng hơn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống và hạnh phúc gia đình. Việc thăm khám và điều trị sớm sẽ giúp bệnh nhân lấy lại sự thoải mái, tự tin, đồng thời nâng cao chất lượng cuộc sống hôn nhân.

Các chuyên gia khuyến cáo, phụ nữ có triệu chứng nghi ngờ mắc co thắt âm đạo nên đến ngay các cơ sở y tế chuyên khoa để được tư vấn và điều trị kịp thời, tránh để bệnh tình kéo dài.

Tin liên quan
Tin khác