Cho vay đặc biệt phải đúng đối tượng, tránh bị lợi dụng chính sách
Trình bày báo cáo tiếp thu, giải trình trước giờ Quốc hội bấm nút, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng làm rõ thêm các nội dung liên quan đến cho vay đặc biệt.
| Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng |
Theo Thống đốc, quy định về các trường hợp tổ chức Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) cho vay đặc biệt cơ bản thống nhất với quy định của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD).
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 3 Điều 191 Luật Các tổ chức tín dụng, TCTD được vay đặc biệt từ tổ chức BHTG khi bị rút tiền hàng loạt, không yêu cầu TCTD này phải đang trong tình trạng được can thiệp sớm, kiểm soát đặc biệt.
Để đảm bảo chặt chẽ, dự thảo Luật BHTG quy định rõ tổ chức BHTG cho vay đặc biệt tổ chức tham gia BHTG khi tổ chức này được can thiệp sớm và bị rút tiền hàng loạt, được kiểm soát đặc biệt và bị rút tiền hàng loạt. Các TCTD được can thiệp sớm, được kiểm soát đặc biệt sẽ chịu sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ hơn các TCTD khác. Việc xác định tình trạng “rút tiền hàng loạt”, “can thiệp sớm”, “kiểm soát đặc biệt” cũng đã được quy định với các tiêu chí cụ thể tại Luật các TCTD và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tại dự thảo Luật cũng giao Thống đốc NHNN quy định việc tổ chức BHTG cho vay đặc biệt đối với TCTD.
Đối với ý kiến của đại biểu yêu cầu đối chiếu, rà soát với Luật Các TCTD về tham gia xử lý sự cố, khủng hoảng trong hoạt động của TCTD, NHNN cho biết, phạm vi quy định tại Luật BHTG rộng hơn quy định tại Luật các tổ chức tín dụng. Nguyên nhân là do việc xác định rõ trường hợp “sự cố, khủng hoảng” là khó khả thi vì đây là các trường hợp không lường trước được gắn với các tình huống phát sinh trên thực tế như những sự cố phát sinh từ những biến động của tình hình thế giới hoặc những sự cố khủng hoảng có tác động đến hoạt động kinh tế xã hội nói chung, hoạt động ngân hàng nói riêng như đại dịch Covid-19 trong thời gian vừa qua ...
Do đó, Điều 39 dự thảo Luật BHTG quy định thẩm quyền Chính phủ quyết định các biện pháp khác để tổ chức BHTG tham gia xử lý sự cố, khủng hoảng, tạo cơ sở để Chính phủ có thể xem xét quyết định áp dụng ngay các biện pháp huy động từ nguồn lực của tổ chức BHTG để ngăn chặn kịp thời sự cố, khủng hoàng, đảm bảo an ninh, an toàn.
Bảo toàn vốn trong hoạt động đầu tư của BHTG, bổ sung trường hợp chi trả sớm
Về vay đặc biệt từ NHNN, có ý kiến đề nghị có quy định làm rõ “nguyên tắc bảo toàn vốn trong hoạt động đầu tư” đối với việc bán giấy tờ có giá chưa đến hạn, rút các khoản tiền gửi chưa đến hạn và có dẫn chiếu áp dụng theo quy định pháp luật nào để bảo đảm có cơ sở pháp lý rõ ràng, tránh vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Đối với nội dung này, Chính phủ cho biết, dự thảo Luật đã quy định rõ: Số tiền trong quỹ dự phòng nghiệp vụ không đủ để trả tiền bảo hiểm được xác định khi tổ chức BHTG đã sử dụng hết số tiền trong quỹ dự phòng nghiệp vụ mà vẫn không đủ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm. Việc bán giấy tờ có giá chưa đến hạn, rút các khoản tiền gửi chưa đến hạn phải đảm bảo nguyên tắc bảo toàn vốn trong hoạt động đầu tư.
Nguyên tắc bảo toàn vốn trong hoạt động đầu tư của tổ chức BHTG cũng đã được quy định tại Điều 142 dự thảo Luật. Việc cụ thể hóa nguyên tắc bảo toàn vốn trong hoạt động đầu tư của tổ chức BHTG, việc vay đặc biệt từ NHNN của tổ chức BHTG sẽ được quy định tại chế độ tài chính của tổ chức BHTG, văn bản hướng dẫn của NHNN.
Về thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm, Chính phủ cho biết, dự thảo Luật đã quy địn nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm phát sinh kể từ một trong ba thời điểm.
Cụ thể, trường hợp tại khoản 1 là khi phương án phá sản TCTD được phê duyệt hoặc NHNN có văn bản xác định chi nhánh ngân hàng nước ngoài mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền; quy định này thống nhất với Luật Các TCTD. Đối với trường hợp chi trả sớm, tại khoản 2, 3 Điều 21 và Điều 36 dự thảo Luật đã xác định thời điểm, cơ quan xác định, điều kiện để thực hiện nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm.
Cụ thể, đối với trường hợp tại khoản 2 Điều 21, việc chi trả phát sinh khi NHNN có văn bản đình chỉ hoạt động nhận tiền gửi của tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt và tổ chức tín dụng đó có lỗ lũy kế lớn hơn 100% giá trị của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ theo báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất.
Đối với trường hợp tại khoản 3 Điều 21, việc chi trả phát sinh khi NHNN có văn bản thông báo cho tổ chức BHTG về việc chi trả theo quy định tại khoản 2 Điều 36 của Luật này, theo đó, để bảo đảm an toàn hệ thống, trật tự an toàn xã hội theo quy định tại khoản 4 Điều 162 Luật Các tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam báo cáo Chính phủ quyết định việc yêu cầu tổ chức bảo hiểm tiền gửi chi trả trong trường hợp tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt bị mất hoặc có nguy cơ mất khả năng chi trả theo pháp luật các tổ chức tín dụng.
Như vậy, tại dự thảo Luật đã xác định vai trò của NHNN trong việc đưa ra các văn bản để xác định thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm đối với các trường hợp chi trả sớm.
Trường hợp phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm tại khoản 2, 3 Điều 21 dự thảo Luật là các trường hợp mới được bổ sung, tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức BHTG chi trả sớm hơn cho người gửi tiền (ngoài trường hợp sau khi phương án phá sản được phê duyệt quy định tại khoản 1). Việc bổ sung quy định về chi trả sớm nhằm đảm bảo việc chi trả được kịp thời, ngay khi TCTD xảy ra sự kiện có nguy cơ gây mất an toàn hệ thống, góp phần ổn định tâm lý người gửi tiền, ngăn chặn nguy cơ đổ vỡ, qua đó tổ chức BHTG có thể thực hiện tốt hơn mục tiêu bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.