Tài chính - Chứng khoán
Xác định thuế thu nhập doanh nghiệp: Hạn chế tình trạng “tay không bắt giặc”
Mạnh Bôn - 05/09/2015 08:45
Bộ Tài chính tỏ rõ quyết tâm theo đuổi quan điểm hạn chế tỷ lệ vốn vay/vốn chủ sở hữu trong việc xác định thuế thu nhập doanh nghiệp khi xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều tại các luật về thuế.

Theo Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều tại các luật về thuế sẽ được trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Kỳ họp thứ 41 vào tháng 9 này, kể từ năm 2016, chi phí trả tiền lãi vay vốn vượt quá 5 lần vốn chủ sở hữu (5:1) đối với lĩnh vực sản xuất, vượt quá 4 lần (4:1) đối với lĩnh vực còn lại sẽ không được tính là chi phí hợp lý, hợp lệ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Kể từ ngày 1/1/2019, tỷ lệ khống chế này sẽ giảm xuống còn 4:1 và 3:1.

Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế (Bộ Tài chính), ông Phạm Đình Thi giải thích, việc khống chế chi phí lãi tiền vay không được trừ vào chi phí nhằm tránh tình trạng doanh nghiệp hoạt động chủ yếu dựa vào vốn đi vay do vốn chủ sở hữu quá mỏng. “Thực tế nhiều doanh nghiệp có khoản vay vượt gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu đã dẫn đến nguy cơ mất an toàn tài chính và cũng là một trong những yếu tố làm ảnh hưởng đến thu ngân sách và gia tăng hoạt động chuyển giá”, ông Thi nói.

Đề xuất của Bộ Tài chính nhằm tránh tình trạng doanh nghiệp hoạt động chủ yếu dựa vào vốn đi vay. Ảnh: Lê Toàn

 

Cụ thể, nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực bất động sản, thương mại, dịch vụ báo cáo kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh lỗ, trong khi doanh thu luôn tăng trưởng và không ngừng mở rộng quy mô. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng lỗ một phần do chi phí trả lãi tiền vay vốn cho công ty mẹ ở nước ngoài quá lớn, thậm chí có công ty trả lãi tiền vay mỗi năm lên đến vài nghìn tỷ đồng.

Theo Bộ Tài chính, việc bổ sung quy định về vốn mỏng là cần thiết, phản ánh đúng chi phí lãi vay phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần đảm bảo an toàn tài chính cho doanh nghiệp, khuyến khích tích tụ, đầu tư trực tiếp, phù hợp điều kiện Việt Nam, tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, phù hợp cam kết hội nhập, tăng tính lành mạnh của nền kinh tế và góp phần chống chuyển giá.

Việc quy định về vốn mỏng, theo ông Thi, không gây tác động lớn đến hoạt động sản xuất - kinh doanh và phù hợp với thông lệ quốc tế. Hiện đa số các nước như New Zealand, Đức, Australia, Nhật Bản, Ba Lan, Hà Lan… đều quy định vốn vay/vốn chủ sở hữu vượt quá 3 lần (tỷ lệ 3:1) được coi là vốn mỏng. Nhiều nước quy định tỷ lệ vốn vay/vốn chủ sở hữu thấp hơn đã được coi là vốn mỏng như Canada là 2:1; Pháp và Mỹ là 1,5:1; Trung Quốc là 2:1 đối với doanh nghiệp thông thường và 5:1 đối với các tổ chức tài chính… Doanh nghiệp vay vốn vượt tỷ lệ này thì phần trả lãi vay đều không được coi là chi phí hợp lý, hợp lệ.

Chủ tịch HĐTV Công ty Tư vấn thuế C&A, bà Đặng Thị Bình An (nguyên Phó tổng cục trưởng Tổng cục Thuế) bày tỏ quan điểm đồng tình với quy định về vốn mỏng. Quy định này không chỉ hạn chế thất thu cho ngân sách nhà nước do doanh nghiệp chi phí quá lớn đối với khoản trả lãi tiền vay, tránh được tình trạng “tay không bắt giặc”, kinh doanh bằng vốn của người khác, mà còn hạn chế được tình trạng gian lận trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.

“Nhiều doanh nghiệp đăng ký vốn rất lớn nhằm tạo niềm tin cho đối tác, khách hàng, nhưng thực lực tài chính rất yếu, hoạt động toàn bằng vốn đi vay vì vốn chủ sở hữu chẳng được bao nhiêu. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho doanh nghiệp làm quen với việc hạn chế chi phí trả lãi tiền vay, thì nên áp dụng tỷ lệ vốn vay/vốn chủ sở hữu là 5:1 kể từ năm 2016 và giảm xuống 4:1 và năm 2020 và từ năm 2022 trở đi áp dụng tỷ lệ 3:1 như khuyến cáo của OECD”, bà An đề xuất.

Thừa nhận thực tế có nhiều doanh nghiệp chủ yếu “tay không bắt giặc” dẫn đến nguy cơ mất an toàn tài chính và nhiều doanh nghiệp do chi phí trả lãi vay quá lớn đã bị thua lỗ, song ông Phạm Ngọc Long, chuyên gia về thuế của Công ty Grant Thornton Vietnam lại không đồng tình với quy định vốn mỏng vì điều này vi phạm quyền tự chủ kinh doanh.

Ông Long cho rằng, doanh nghiệp hoặc tổ chức tài chính cho doanh nghiệp khác vay vốn đã có đánh giá khả năng thu hồi cả vốn lẫn lãi và chấp nhận rủi ro nếu không may mất vốn, nên Nhà nước không cần can thiệp. Doanh nghiệp vay vốn nếu bị lỗ do chi phí trả lãi quá lớn, ngân sách không thu được thuế từ doanh nghiệp này, thì thu thuế từ lãi cho vay của đơn vị cho vay vốn nên cũng chẳng mất gì.

Nếu muốn chống chuyển giá thì phải sử dụng đồng bộ các giải pháp khác, chứ không chỉ vì một số doanh nghiệp chuyển giá mà gây khó dễ cho sản xuất, kinh doanh. “Trong trường hợp dứt khoát phải có quy định vốn mỏng, thì phải xác định rõ lĩnh vực, ngành nghề nào áp dụng tỷ lệ 5:1, ngành nghề, lĩnh vực nào áp dụng tỷ lệ 4:1, không nên chỉ quy định là lĩnh vực sản xuất áp dụng tỷ lệ 5:1 và phi sản xuất thì áp dụng 4:1”, ông Long đề xuất.

Tin liên quan
Tin khác