Doanh nghiệp
Báo động sức khỏe của doanh nghiệp Việt
Khánh An - 17/04/2013 06:07
Sức khỏe doanh nghiệp Việt đang ở mức báo động, năng lực tài chính giảm, khả năng sinh lợi thấp. Đây là nét trầm trong bức tranh doanh nghiệp (DN) Việt Nam hậu gia nhập WTO.  
TIN LIÊN QUAN
Doanh nghiệp chế biến thủy sản có chỉ số nợ cao nhất. Ảnh: Hà Thanh

(baodautu.vn) Đó là những nét chính do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vẽ lại trong Báo cáo DN Việt Nam sẽ được công bố vào ngày mai (18/4).

Đây là lần thứ 6, VCCI công bố Báo cáo DN Việt Nam, song lại là lần thứ 2 liên tiếp, sức khoẻ DN Việt Nam được báo động ở mức cao.

Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư trước thềm Lễ công bố Báo cáo thường niên DN Việt Nam 2012, bà Phạm Thị Thu Hằng, Tổng thư ký VCCI cho biết, chỉ số thanh khoản, năng lực sử dụng vốn của DN trong 6 ngành nghiên cứu đều có xu hướng giảm, trong khi tỷ lệ DN lỗ tăng lên.

“Chỉ số nợ của toàn bộ 6 ngành đều không thoả mãn giá trị kỳ vọng chuẩn. Ngoại trừ đặc thù của ngành bán lẻ thực phẩm đồ uống thường hoạt động dựa trên các khoản nợ đối với nhà cung cấp, việc chỉ số nợ trong các DN sản xuất cao sẽ ảnh hưởng không tốt tới khả năng tài chính của DN”, bà Hằng phân tích.

Nếu nhìn vào từng ngành, chế biến thủy sản có chỉ số nợ cao nhất, 2,9 lần năm 2011, nghĩa là tổng số nợ của DN gấp gần 3 lần so với vốn tự có của họ, nghĩa là các DN này đang dựa quá nhiều vào các khoản nợ và do đó, dẫn đến chỉ số thanh toán kém.

Trong số 3 ngành sản xuất được nhắc tới, thì sản xuất đồ uống có chỉ số nợ thấp nhất, luôn dao động trong khoảng 1 lần và chỉ tăng lên 1,3 lần năm 2011. Ngành sản xuất cấu kiệu kim loại có chỉ số nợ cao, 2,3 lần trong năm 2011.

Với chỉ số này của ngành sản xuất cấu kiện kim loại, các chuyên gia nghiên cứu cảnh báo, sự phụ thuộc nhiều vào các khoản nợ, cộng với hiệu suất lợi nhuận trên doanh thu của ngành này cũng thấp nhất trong 6 ngành, cho thấy DN sản xuất cấu kiện kim loại có khả năng sinh lời rất thấp, rất khó thu hút nhà đầu tư.

Chế biến thủy sản có lẽ là một trường hợp khá điển hình của nền kinh tế sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, bà Hằng bình luận về lý do lựa chọn ngành này để nghiên cứu. Với kim ngạch xuất khẩu trên 6 tỷ USD năm 2012 và luôn nằm trong tốp 10 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, có mặt ở các thị trường nổi tiếng khó tính như Mỹ, EU, Nhật Bản… đã chứng tỏ khả năng tiếp cận thị trường khá tốt của doanh nghiệp trong ngành.

Tuy nhiên, chỉ số thanh toán nhanh của DN chế biến thủy sản lại đứng thấp nhất trong 6 ngành, chỉ đạt 2,5 lần trong năm 2011. “Điều này cho thấy, khả năng thanh toán của các DN trong ngành có vấn đề và những sự việc diễn ra trong năm 2012 đã chứng tỏ hậu quả của việc không đảm bảo chỉ số thanh toán của các DN trong ngành thủy sản”, bà Hằng phân tích các số liệu về khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của DN bằng tài sản lưu động ngoài hàng hoá tồn kho. Trong kinh doanh, các DN luôn cố gắng duy trì giá trị của chỉ số này tối thiểu bằng 1.

Đặc biệt, chỉ số thanh toán hiện tại (chỉ số phản ánh năng lực thanh toán hiện tại các khoản nợ ngắn hạn của DN bằng việc sử dụng tài sản lưu động) của ngành chế biến thủy sản cũng thấp nhất nếu so với các ngành khác. Cụ thể, năm 2011, các ngành đều có chỉ số thanh toán hiện tại trên 6 lần, trong khi ngành thủy sản lận đận dưới 4 lần. Đặc biệt, chỉ số thanh toán hiện tại của DN có quy mô trên 200 lao động, chiếm khoảng 22% tổng số DN trong ngành, đều thấp dưới 1,5 lần.

Riêng về ngành này, trong nghiên cứu mới đây của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương về đánh giá tình hình kinh tế - xã hội sau 5 năm gia nhập WTO vừa được công bố đầu tháng 4/2013, thủy sản là ngành được xác định có chỉ số lan toả kinh tế cao (1,9 lần), chỉ số kích thích nhập khẩu thấp (0,7 lần).

“Nếu tính trên tiêu chí này, đây là ngành cần hỗ trợ để phát triển, để khai thác sự tác động tích cực hơn tới nền kinh tế”, bà Phạm Lan Hương, chuyên gia thực hiện nghiên cứu đề xuất khi cho biết, các DN trong lĩnh vực này chưa có sự hậu thuẫn đủ mạnh về chính sách để có hướng phát triển bền vững hơn, thay vì cuộc cạnh tranh bằng giá mà các DN thủy sản đang phải đeo đuổi.

Liên quan đến chỉ số khác được sử dụng để đánh giá năng lực tài chính của DN, Báo cáo thường niên DN Việt Nam năm 2012 cũng cho thấy, chỉ số khả năng trả lãi vay trong các ngành đều suy giảm trong giai đoạn 2009 - 2011, báo động tình trạng chi trả các khoản lãi vay của các DN trong các ngành nghiên cứu ngày càng kém đi. Trong đó, sụt giảm mạnh nhất là sản xuất đồ uống, quảng cáo và giới thiệu xúc tiến thương mại, giảm từ khoảng 9 lần năm 2010 xuống còn 2 - 4 lần vào năm 2011.

Tin liên quan
Tin khác