Bài viết này tập trung vào phân tích nội hàm và diễn biến của năng suất lao động và chất lượng nhân lực Việt Nam trong trạng thái “động” của quá trình cải cách thể chế. Từ đó, đề xuất cần phải đẩy nhanh mức độ thể chế hóa thị trường lao động, đổi mới cơ cấu nguồn nhân lực cùng với nâng cao năng suất lao động để sẵn sàng cho giai đoạn phát triển mới.
Tăng trưởng kinh tế làm thay đổi thể chế
Trong quá trình mở cửa kinh tế, hội nhập với khu vực và quốc tế, chuyển đổi kinh tế sang thị trường đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đòi hỏi cải cách thể chế. Chủ động thay đổi và hoàn thiện thể chế, đến lượt nó, sẽ tạo điều kiện cho kinh tế phát triển bền vững.
Kinh tế học nói chung và kinh tế học lao động nói riêng mang lại những kiến thức về thị trường lao động, mối quan hệ qua lại giữa năng suất và chất lượng nhân lực trong điều kiện thị trường bất định – “con người kinh tế” hoàn chỉnh tương đối. Đối với Việt Nam, trong quá trình chuyển đổi, yếu tố thể chế đóng vai trò rất quan trọng. Xác lập và phát triển thị trường lao động cần gắn với thay đổi cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp, vượt lên những ý thức hệ giáo điều về bóc lột sức lao động, bảo vệ quyền lao động, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo và củng cố mạng lưới an sinh xã hội.
Những lợi thế hiện hữu của Việt Nam về lực lượng lao động dồi dào và nhân công giá rẻ sẽ dần mất ưu thế |
Trong bối cảnh đó, làm thế nào để nâng cao năng suất và chất lượng nhân lực Việt Nam đã và đang là vấn đề nóng. Đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan, tuy nhiên các kết quả được phân tích trong trạng thái tĩnh của thể chế khiến bỏ qua một số phát hiện quan trọng, thậm chí là đột phá. Hơn nữa, nếu đặt vấn đề nghiên cứu trong xu hướng dịch chuyển chung về cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, như quá trình “phi công nghiệp hóa sớm” ở các nước đang phát triển và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 trên thế giới và khu vực, có thể cho phép bổ sung đáng kể vào những kết quả hiện hữu.
Về cách tiếp cận, phương pháp truyền thống nghiên cứu vấn đề năng suất và chất lượng nhân lực cho biết bức tranh toàn cảnh. Có nhiều công trình nghiên cứu có liên quan, tuy nhiên phần lớn được phân tích định tính, khi giả định mối quan hệ nhân quả: chất lượng nhân lực – năng suất lao động, nhiều yếu tố khác đã không được tính đến hoặc đề cập không đầy đủ trong tổng thể, vì vậy chưa cho phép khám phá đầy đủ bản chất phía sau bức tranh toàn cảnh này.
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta từ lâu luôn khẳng định quan điểm coi con người là trung tâm của sự phát triển. Hiện nay, trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá và hội nhập quốc tế, phát triển nhân lực được coi là một trong ba khâu đột phá của chiến lược chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; đồng thời, phát triển nhân lực trở thành nền tảng cho phát triển bền vững và tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia.
Đây là vấn đề không mới, tuy nhiên chúng ta đặt vấn đề nghiên cứu trong trạng thái “tĩnh” của thể chế. Hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế thúc đẩy sự thay đổi thể chế kinh tế, trong khi đó, sự thay đổi thể chế nói chung và thể chế chính trị nói riêng diễn ra chậm chạp và bị động. Điều này tác động ngay đến chất lượng nhân lực, khi quan niệm chưa đầy đủ rằng con người tạo ra thể chế, do đó cũng có thể thay đổi được nó. Báo cáo này bổ sung phần nào đó cho các nghiên cứu truyền thống.
Năng suất lao động (NSLĐ) là phạm trù kinh tế liên quan trực tiếp đến tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và lực lượng lao động, việc làm. NSLĐ thấp ở nước ta là vấn đề ngày càng trở nên cấp bách khi hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Năm 2015, năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn NSLĐ của Xingapo gần 17 lần, thấp hơn NSLĐ của Nhật Bản 11 lần, thấp hơn NSLĐ của Hàn Quốc 10 lần, bằng 1/5 NSLĐ của Malaixia và 2/5 NSLĐ của Thái Lan. Trong khi đó, các nền kinh tế kém phát triển hơn lại có tốc độ tăng NSLĐ cao hơn so với Việt Nam như: NSLĐ của Lào năm 2008 chỉ bằng 0,93 lần của Việt Nam, nhưng đã đuổi kịp Việt Nam vào năm 2015; năm 2008, NSLĐ của Myamar bằng 0,51 lần NSLĐ của Việt Nam, tăng lên bằng 0,55 lần năm 2015.
Nhiều nhận định cho rằng chất lượng nhân lực nước ta “đáng báo động”, là nguyên nhân trực tiếp của tình hình.
NSLĐ so với các nước trong khu vực và có cơ cấu bất cập. Theo thống kê Việt Nam, NSLĐ được xác định bằng tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá hiện hành (hoặc giá so sánh) bình quân 1 lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế, được phân tổ theo ngành và thành phần kinh tế.
Biểu 1. NSLĐ xã hội theo ba khu vực kinh tế (Đơn vị: triệu đồng)
NSLĐ tính theo giá so sánh 2010 | 2005 | 2010 | 2015 |
NSLĐ xã hội | 37,1 | 44,0 | 54,4 |
- KV1: Nông, lâm, thủy sản | 14,5 | 16,8 | 20,2 |
- KV2: Công nghiệp và xây dựng | 80,5 | 80,3 | 95,1 |
- KV3: Dịch vụ | 54,8 | 63,8 | 72,2 |
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Theo giá so sánh năm 2010, NSLĐ bình quân giai đoạn 2006-2015 tăng 3,9%/năm, trong đó: giai đoạn 2006-2010 tăng 3,4%/năm, giai đoạn 2011-2015 tăng 4,3%/năm. NSLĐ xã hội của nước ta, tuy tăng dần theo thời gian, nhưng còn ở mức thấp và chênh lệch lớn với các nước trong khu vực. Hơn thế, NSLĐ có khoảng cách lớn theo phân tổ nhóm ngành chứng tỏ thị trường lao động đang hết sức bất cập.
Biểu 2. NSLĐ xã hội theo ngành kinh tế cấp I theo giá so sánh (Đơn vị: triệu đồng)
Chỉ tiêu | 2005* | 2010 | 2015 |
Tổng số | 21,4 | 44.0 | 54.4 |
Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản | 7,5 | 16.3 | 19.7 |
Khai khoáng | 346,6 | 742.2 | 1037.4 |
Công nghiệp chế biến, chế tạo | 34,2 | 42.0 | 53.0 |
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng và điều hòa không khí | 220,0 | 504.8 | 760.9 |
Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải | 37,3 | 94.6 | 138.0 |
Xây dựng | 26,9 | 42.7 | 53.2 |
Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác | 24,3 | 31.1 | 40.3 |
Vận tải, kho bãi | 21,7 | 43.8 | 51.5 |
Dịch vụ lưu trú và ăn uống | 35,6 | 45.5 | 43.6 |
Thông tin và truyền thông | 66,0 | 77.3 | 91.3 |
257,3 | 457.8 | 441.0 | |
Hoạt động kinh doanh bất động sản | 3232,2 | 1300.0 | 975.1 |
Hoạt động chuyên môn, KHCN | 82,0 | 128.8 | 167.9 |
Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ | 32,3 | 42.5 | 39.3 |
Hoạt động của Đảng Cộng sản, tổ chức chính trị - xã hội; quản lý Nhà nước, an ninh quốc phòng; đảm bảo xã hội bắt buộc | 13,7 | 35.2 | 47.1 |
Giáo dục và đào tạo | 21,4 | 30.0 | 39.3 |
Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội | 35,0 | 53.4 | 62.0 |
Nghệ thuật, vui chơi và giải trí | 76,9 | 62.8 | 76.7 |
Hoạt động dịch vụ khác | 17,9 | 50.0 | 55.6 |
Hoạt động làm thuê các công việc trong các hộ gia đình, sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia đình | 7,5 | 15.0 | 20.5 |
(*) Tổng sản phẩm trong nước theo giá hiện hành bình quân 1 lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Từ biểu 2 cho thấy các nhóm ngành có NSLĐ cao nhất là kinh doanh bất động sản, tài chính, ngân hàng và khai khoáng, lớn hơn hàng trăm lần so với NSLĐ thấp nhất ở các nhóm ngành như: hoạt động làm thuê các công việc trong các hộ gia đình, sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia đình; nông lâm nghiệp và thủy sản, giáo dục đào tạo… Đơn cử, NSLĐ của kinh doanh bất động sản năm 2005 lớn hơn NSLĐ của hoạt động làm thuê các công việc trong các hộ gia đình, sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia đình đến hơn 431 lần (3232,2/7,5), năm 2015 là 47,6 lần (975,1/20,5)… Sự so sánh này có thể thực hiện với hai nhóm ngành tiếp theo thứ tự cao thấp cho thấy thị trường “rung lắc” rất mạnh, có vấn đề lớn với chất lượng và năng suất lao động.
Đặc biệt đáng lưu tâm là nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cũng có NSLĐ ở mức thấp và kéo dài hàng thập kỷ, mà báo cáo sẽ phân tích ở phần sau.
Phần lớn các nghiên cứu liên quan cho rằng chất lượng nhân lực thấp là nguyên nhân trực tiếp. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB) về chất lượng nhân lực, nếu lấy thang điểm 10 thì Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm, xếp thứ 11/12 nước châu Á tham gia xếp hạng, trong khi đó, Thái Lan, Malaysia lần lượt là 4,94 và 5,59.
Quy mô dân số Việt Nam năm 2015 là 91,71 triệu người, trong đó có 53,98 triệu người (nghĩa là hơn 3/4 dân số) từ 15 tuổi trở lên tham gia lực lượng lao động. Quy mô nền kinh tế còn nhỏ (GDP năm 2015 là 4.192.862 tỷ đồng theo giá hiện hành, tương đương khoảng 200 tỷ USD) nên tổng quy mô lực lượng lao động hiện nay khá lớn. Đây vừa là nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế, nhưng đồng thời cũng gây sức ép về giải quyết việc làm, thách thức lớn với tăng NSLĐ, nhất là khi chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế.
Cơ cấu lao động hiện có nhiều bất cập và xu hướng tiêu cực này vẫn tiếp tục diễn ra trong thời gian tới. Tính đến Quý II/2015, cơ cấu trình độ nhân lực lao động Việt Nam là 1 đại học trở lên, thì 0,35 cao đẳng, 0,65 trung cấp và 0,4 sơ cấp. Trong khi đó, về nguyên tắc, những người lao động trực tiếp trình độ trung cấp, sơ cấp phải lớn hơn nhiều lần so với lao động gián tiếp. Hiện nay, Việt Nam đang rất thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao. Theo công bố của Tổng cục Thống kê, số người có trình độ chuyên môn kỹ thuật chỉ có 10,56 triệu người, chiếm tỷ lệ thấp trong tổng số 52,9 triệu lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm năm 2015 (chiếm 19,9%). Trong các phiên giao dịch việc làm, phần lớn người sử dụng lao động cho rằng tuyển dụng lao động là công việc khó khăn vì các ứng viên không có kỹ năng phù hợp hoặc vì sự khan hiếm người lao động trong một số ngành nghề cụ thể.
Trên phương diện cầu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm làm chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành và khu vực kinh tế chậm. Tỷ trọng lao động đang làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 55,1% năm 2005 xuống còn 44,0% năm 2015; tỷ trọng lao động trong khu vực công nghiệp-xây dựng tăng tương ứng từ 17,6% lên 22,8%; tỷ trọng lao động trong khu vực dịch vụ tăng từ 27,3% lên 33,2%. Ngoài ra, cơ cấu lao động thấp chưa phù hợp với nhu cầu thực tế, chưa cân đối giữa các ngành, lĩnh vực và các trình độ đào tạo.
Các giải pháp nâng cao chất lượng nhân lực chủ yếu là: Đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước về phát triển nhân lực, trong đó tăng cường hiệu quả quản lý, hệ thống thông tin và cơ chế, chính sách liên quan; Bảo đảm nguồn lực tài chính cho phát triển nhân lực, trong đó tập trung nguồn vốn và cơ chế phân bổ; Đổi mới giáo dục và đào tạo (được coi là chủ yếu); Chủ động hội nhập quốc tế để phát triển nguồn nhân lực Việt Nam về pháp luật, kiểm định và các chuẩn đánh giá, ngoại ngữ…
. |
Các giải pháp nâng cao năng suất lao động tập trung vào: Ổn định kinh tế vĩ mô, cải cách thể chế, tái cơ cấu mạnh mẽ nền kinh tế, tạo môi trường khuyến khích các doanh nghiệp liên tục đổi mới; Phân bổ lại nguồn lực thông qua chính sách ngành hợp lý; Tận dụng cơ hội hội nhập kinh tế quốc tế; Thúc đẩy quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước; Chú trọng ưu tiên hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; Xây dựng, hoàn thiện các chính sách, pháp luật về lao động, việc làm; Phát triển mạnh thị trường khoa học và công nghệ.
Môi trường vĩ mô là quan trọng, tuy nhiên đối với từng doanh nghiệp, tổ chức cũng cần chú trọng: Phân công công việc phù hợp với từng nhân viên theo chuyên môn, kỹ năng, kinh nghiệm và, đặc biệt, theo sở thích; Xây dựng môi trường làm việc thân thiện, chuyên nghiệp, hợp tác và tôn trọng; Áp dụng phương pháp quản trị mục tiêu và đánh giá thành tích nhân viên; Trả lương và các chế độ đãi ngộ đảm bảo cạnh tranh và công bằng; Đẩy mạnh công tác đào tạo và phát triển nhân viên, coi đây là đầu tư cho vốn nhân lực; Thường xuyên nghiên cứu để cải tiến bộ máy quản lý, quy trình làm việc, máy móc thiết bị…
Khẳng định chất lượng lao động là yếu tố chính để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, bởi vậy cải cách giáo dục - đào tạo là trụ cột quan trọng, đào tạo theo nhu cầu thị trường là yêu cầu cấp thiết. Vấn đề được đặt ra từ nhiều năm trước, nhiều giải pháp được đề xuất, tuy nhiên tình hình chưa chuyển biến nhiều, còn nhiều vướng mắc.
Tuy nhiên, nếu tập trung quá theo hướng này trong điều kiện thị trường đào tạo còn nhiều rào cản, chưa rõ những giải pháp có tăng được tri thức thúc đẩy phát triển trong bối cảnh còn có hạn chế tự do kinh doanh, tự do sáng tạo, tự do cá nhân, còn khá tách rời với thị trường lao động vốn đang tồn tại nhiều bất cập cả về nhận thức và cấu trúc thể chế. Bởi vậy, để tháo gỡ vấn đề, trước hết và cần đột phá từ phía thị trường, gắn cung và cầu thực chất của nền kinh tế.
Xu hướng và giải pháp thể chế kinh tế thị trường
Mở cửa kinh tế hội nhập khu vực và quốc tế, chuyển đổi sang kinh tế thị trường đã làm thay đổi bản chất của vấn đề lao động. Một số nội dung có thể được khám phá nếu có tiếp cận thực chất hơn về thị trường, vượt qua rào cản ý thức hệ giáo điều về toàn dụng lao động, bóc lột lao động và các khía cạnh đạo đức khác.
NSLĐ là bộ phận cấu thành của tổng sản phẩm trong nước (GDP). Chỉ tiêu NSLĐ được thống kê bằng cách lấy GDP chia cho số lao động 15 tuổi trở lên làm việc trong nền kinh tế.
GDP được hiểu là thước đo sản lượng kinh tế của một quốc gia, được thể hiện bằng một giá trị tiền tệ duy nhất. Hơn thế, GDP và tốc độ tăng trưởng của nó, là chỉ số phổ quát về sự phát triển, an sinh và sức mạnh địa chính trị. Tăng trưởng GDP dương là mục tiêu của mọi chính phủ. Ở Việt Nam cũng vậy.
Tuy nhiên GDP có những nhược điểm đã được kiểm chứng. Ví dụ, tăng trưởng GDP ngắn hạn là kết quả của những hoạt động sản xuất gây ô nhiễm hoặc suy thoái môi trường, nhưng không thể hiện những công việc nội trợ và chăm sóc trẻ em không được trả lương, và các hoạt động tạo giá trị rõ rệt khác mà nó hầu như không tính tới (nếu có). Ở Việt Nam, các dự án gây tranh cãi như bauxite Tây Nguyên, Formosa Hà Tĩnh và các dự án đang thua lỗ do Bộ Công Thương quản lý hiện nay là những ví dụ điển hình về tính hiệu quả kinh tế và ô nhiễm môi trường.
Trên phương diện chính sách công, nhà kinh tế đoạt giải Nobel Joseph E. Stiglitz từng viết: Bất kể GDP có tăng trưởng nhanh ra sao, một hệ thống kinh tế thất bại trong việc cung cấp lợi ích cho hầu hết công dân của nó, và ngày càng có nhiều người dân phải đối mặt với sự bất an ngày một gia tăng, thì về cơ bản là một hệ thống kinh tế thất bại. Và các chính sách làm gia tăng sự bất an và dẫn đến suy giảm thu nhập và mức sống của phần lớn dân số, ví dụ như chính sách thắt lưng buộc bụng, về cơ bản là các chính sách sai lầm [6].
Trong một nghiên cứu của mình, chuyên gia kinh tế Bùi Trinh đã phân tích các nhược điểm của GDP trong điều kiện Việt Nam, thể hiện ở chỗ GDP có thể tăng do chi thường xuyên để nuôi bộ máy khổng lồ, do đầu tư dàn trải, các công trình xây xong không biết để làm gì hay thậm chí tham nhũng... Bên cạnh đó, chạy theo đầu tư hạ tầng một cách lãng phí hay tăng trưởng theo kiểu tăng sản lượng khai thác dầu mỏ, gia tăng khai thác tài nguyên để lấy GDP thực sự chỉ mang lại rủi ro khó lường. Vì vậy ông cho rằng trong điều kiện Việt Nam khi phân tích GDP, cần được xem xét chỉ tiêu bổ sung là Thu nhập quốc dân (Gross National Income – GNI)[7].
Đã từ lâu, các nhà kinh tế đã có những nỗ lực tìm chỉ tiêu thay thế. Simon Kuznets - nhà khoa học đoạt giải Nobel kinh tế, đã đề xuất nghiên cứu, xác định chỉ tiêu được gọi là “Thu nhập quốc dân” (National Income). Tuy nhiên, sự hữu ích về mặt chính trị của GDP, và câu chuyện rằng chiếc bánh to hơn là tốt hơn cho tất cả mọi người, sẽ không dễ để vượt qua – ngay cả khi đã được chứng minh là có nhiều khiếm khuyết.
GDP được cấu thành tổ hợp từ các yếu tố vốn, lao động và công nghệ. Gần đây, nó được phân tích bổ sung yếu tố cấu trúc thể chế (theo kinh tế học thể chế). Việc phân tích năng suất các nhân tố tổng hợp (Total Factor Productivity - TFP) đã được thúc đẩy. Tỷ lệ đóng góp TFP cho tăng trưởng GDP của Việt Nam ở mức thấp, cho thấy trình độ, ý thức tổ chức và quản lý trong sản xuất kinh doanh của người lao động chưa đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất hiện đại. Cụ thể, trong thời kỳ 2001-2010 là 4,3%, trong đó: giai đoạn 2001 - 2005 là 11,9% và giai đoạn 2006 - 2010 là 4,5%, giai đoạn 2011 - 2015 đạt khoảng 29%. Ngắn gọn là, tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 2001 - 2010 chủ yếu vẫn dựa vào đóng góp của vốn và lao động, trong đó yếu tố vốn đóng góp tới 72,03% và đóng góp của yếu tố lao động là 23,69%.
Sản xuất công nghiệp Việt Nam chủ yếu có công nghệ sản xuất thấp và trung bình. Tỷ lệ doanh nghiệp công nghiệp sản xuất các sản phẩm thuộc công nghệ thấp và trung bình của Việt Nam năm 2012 trong toàn ngành chế biến, chế tạo là 88%, công nghệ cao chỉ chiếm 12%, tỷ lệ này thậm chí còn thấp hơn năm 2000 (12,8%). Giá trị tăng thêm của các ngành thuộc công nghệ cao năm 2012 chỉ chiếm 26,5% so với toàn ngành chế biến, chế tạo, thấp hơn tỷ lệ 29,1% của năm 2000.
Trong điều kiện chuyển đổi sang kinh tế thị trường, các nguyên tắc: tự do kinh doanh, sở hữu tư nhân, động cơ lợi nhuận, cạnh tranh công bằng và người tiêu dùng tự quyết chưa được thể chế hỗ trợ nhiều, quá trình cải cách diễn ra chậm, bị động theo kiểu “dò đá qua sông". Thị trường “rung lắc” rất mạnh, gây bất ổn kinh tế vĩ mô từ năm 2008 đến nay do tăng trưởng nóng trong nước cộng hưởng với khủng hoảng tài chính thế giới. Điều này ảnh hưởng đến chỉ tiêu GDP và NSLĐ, như đã phân tích ở trên (xem mục 1.4).
Chênh lệch lớn về thu nhập, thể hiện qua NSLĐ, đã tác động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu lao động ở một số ngành, về tổng thể theo 3 khu vực, là tích cực.
Biểu 3. Cơ cấu lao động có việc làm theo khu vực kinh tế (%)
Năm | Tổng số | Trong đó: | |||
Nghìn người | Tỷ lệ % | Khu vực 1 | Khu vực 2 | Khu vực 3 | |
2005 | 42.774,9 | 100,0 | 55,1 | 17,6 | 27,3 |
2010 | 49.048,5 | 100,0 | 49,5 | 21,0 | 29,5 |
2015 | 52.840,0 | 100,0 | 44,0 | 22,8 | 33,2 |
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Trong giai đoạn 2005 đến nay, tỷ trọng lao động đang làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 55,1% năm 2005 xuống còn 44,0% năm 2015; tỷ trọng lao động trong khu vực công nghiệp - xây dựng tăng tương ứng từ 17,6% lên 22,8%; và tỷ trọng lao động trong khu vực dịch vụ tăng từ 27,3% lên 33,2%.
Lưu ý trong một số ngành đặc thù, như kinh doanh bất động sản và tài chính - ngân hàng có số lao động tăng lên nhanh chóng trong giai đoạn “bùng nổ” 2008 - 2011, sau đó giảm nhanh do hậu quả.
Chuyển dịch cơ cấu như trên, về tổng thể, phù hợp với cơ cấu kinh tế trong thời kỳ này. Có sự tác động qua lại giữa chuyển đổi cơ cấu kinh tế và thay đổi cơ cấu lao động trong cải cách thể chế ở Việt Nam, loại bỏ các rào cản để hướng tới sự phù hợp lớn hơn.
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút nhiều lao động nhất trong số các ngành phi nông nghiệp và trong số 4 nhóm ngành sản xuất công nghiệp (Khai khoáng, công nghiệp chế biến và chế tạo; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng và điều hòa không khí; Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải). Hơn nữa, chỉ tiêu này tăng cả về tuyệt đối và tương đối. Năm 2005 là 11,8%, năm 2010 là 13,5% và năm 2015 là 15,5% tổng số lao động đang làm việc. Tỷ trọng này tăng thường gắn với yếu tố đầu tư nước ngoài, tuy nhiên hy vọng có thể thế chỗ Trung Quốc trở thành công xưởng thế giới là điều không khả thi, khi các yếu tố bảo hộ và làn sóng Cách mạng công nghiệp 4.0 đang lan rộng.
Cần lưu ý xu hướng được gọi là “quá trình phi công nghiệp hóa sớm” và những tác hại của nó trước làn sóng toàn cầu hóa kinh tế gần đây. Được biết hầu hết các nền kinh tế phát triển hiện nay đều đi lên từ con đường công nghiệp hóa quen thuộc. Ở Anh - nơi ra đời cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, số nhân công trong lĩnh vực chế tạo đạt mức cao nhất 45% trước Thế chiến I, sau đó giảm xuống còn khoảng 30% và duy trì cho đến đầu những năm 1970 trước khi giảm mạnh chỉ còn chưa đến 10% lực lượng lao động. Tình hình tương tự cũng diễn ra ở Mỹ, Thụy Điển, Đức…
Chỉ một số ít những nước đang phát triển, tiêu biểu là ở Đông Á, mới có khả năng đi theo mô hình này. Nhờ các thị trường xuất khẩu, Hàn Quốc đã tiến hành công nghiệp hóa một cách đặc biệt nhanh chóng: Tỉ lệ nhân công trong lĩnh vực chế tạo tăng từ mức 1 con số vào những năm 1950 lên mức cao 28% vào năm 1989 (và từ đó đã giảm 10%); Hàn Quốc chỉ mất ba thập niên để chuyển đổi trong khi các nước công nghiệp hóa sớm mất ít nhất một thế kỷ hoặc lâu hơn.
Đa số những nước còn lại, kể cả Braxin, Ấn Độ, Trung Quốc cũng bị chi phối bởi “hiện tượng phi công nghiệp hóa sớm”, khi tỷ lệ lao động trong ngành chế tạo trong tổng số việc làm dao động trong khoảng 12% đến 15%. Một trong những nguyên nhân được cho là quá trình toàn cầu hóa và độ mở kinh tế, những thứ đã khiến các nước đang phát triển khó cạnh tranh với những cường quốc chế tạo trên thế giới.
Nước ta, theo chúng tôi, cũng không tránh khỏi quá trình “phi công nghiệp hóa sớm” này.
Một xu hướng tác động dài hạn hơn, tuy nhiên đã hiện hữu. Cuộc cách mạng 4.0 đang diễn ra dựa trên nền tảng công nghệ kỹ thuật số và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh đang đe dọa loại bỏ mô hình kinh tế truyền thống. Đó là, trong nhiều thập kỷ, các nước phát triển hơn tiến vào những ngành công nghiệp phức tạp như điện tử, Internet, dịch vụ tài chính, các nước nghèo hơn lại thế chân họ trong ngành dệt may bằng việc cung cấp lao động giá rẻ và làm việc theo phương thức truyền thống. Hàng hóa được tạo ra bởi lao động giá rẻ có mặt ở khắp nơi trên thế giới trong khi người lao động có thêm lựa chọn mưu sinh ngoài nông nghiệp.
Từ góc nhìn thị trường lao động, Cách mạng 4.0 sẽ tạo ra những thay đổi lớn về cung - cầu. Tại Diễn đàn Kinh tế thế giới diễn ra đầu năm 2016 tại Thụy Sĩ, các nhà kinh tế đã cảnh báo, trong cuộc Cách mạng này, thị trường lao động sẽ bị thách thức nghiêm trọng giữa cung và cầu lao động, cũng như cơ cấu lao động. Theo dự báo, với sự xuất hiện của robot, số lượng nhân viên cần thiết sẽ chỉ còn 1/10 so với hiện nay, số còn lại sẽ phải chuyển nghề hoặc thất nghiệp. Thị trường lao động sẽ phân hóa mạnh mẽ giữa nhóm lao động có kỹ năng thấp và nhóm lao động có kỹ năng cao. Lao động giá rẻ không còn là lợi thế cạnh tranh của nhiều quốc gia như trước đây. Ngay cả lao động có kỹ năng bậc trung (trình độ trung cấp, cao đẳng) cũng sẽ bị ảnh hưởng, nếu như họ không được trang bị những kỹ năng mới, sáng tạo.
Điều đáng quan ngại là sự chuyển đổi từ lao động truyền thống sang tự động hóa sẽ diễn ra rất nhanh. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) ước tính việc thay thế hàng loạt công nhân tay nghề thấp bằng robot sẽ diễn ra trong vòng 20 năm tới. Cũng theo dự báo của ILO, 86% lao động ngành công nghiệp dệt may và giày dép ở Việt Nam sẽ phải đối mặt với nguy cơ thất nghiệp cao do những đột phá về công nghệ tự động hóa và trí tuệ nhân tạo. Việt Nam sẽ chuẩn bị như thế nào và làm gì để thay đổi một nước đang phát triển, nguồn nhân lực dồi dào với 70% lao động giản đơn hoạt động sản xuất truyền thống, phần lớn trong nông nghiệp, trở thành một nước công nghiệp hiện đại.
Đây là câu hỏi lớn, đang bỏ ngỏ đối với các nhà hoạch định chính sách Việt Nam.
Kết quả tác động của các xu hướng trên có thể là sự bất ổn sâu sắc trong xã hội. Một hệ quả tức thì, về mặt kinh tế, là các nước đang phát triển đang chuyển sang nền kinh tế dịch vụ với mức thu nhập thấp hơn đáng kể, do năng suất lao động thấp. Rõ ràng là, quá trình phi công nghiệp hóa sớm cản trở nước đang phát triển theo kịp những nền kinh tế tiên tiến. Bởi vì ngành công nghiệp chế tạo thường có năng suất lao động với xu hướng gia tăng, ngay cả trong các nền kinh tế nơi chính sách, các thể chế và địa lý cùng nhau góp phần làm chậm sự tiến bộ của các ngành khác trong nền kinh tế. Sự giới hạn công nghiệp hóa gần như chắc chắn đồng nghĩa với việc sẽ có ít hơn những phép màu tăng trưởng trong tương lai.
Những hệ quả về mặt xã hội và chính trị khó đo lường hơn, nhưng cũng có thể có tầm quan trọng tương đương. Một số nền dân chủ thị trường hiện đại là sản phẩm của quá trình công nghiệp hóa kéo dài và quá trình đấu tranh lâu dài giữa lao động và tư bản – các cuộc đấu tranh chủ yếu nổ ra trên sàn các công xưởng sản xuất. Với quá trình phi công nghiệp hóa sớm, các nước đang phát triển ngày nay, trong đó có Việt Nam, sẽ phải đi những con đường khác, tuy chưa rõ ràng, và có thể là chông gai để đến với nền dân chủ và quản trị tốt [8].
Đằng sau chênh lệch lớn về NSLĐ giữa các ngành, khu vực và thành phần kinh tế trong một thời kỳ dài, đó là sự bất bình đẳng xã hội, trước hết là về thu nhập, tiền công. Ở Việt Nam chỉ 1/3 lao động làm công ăn lương. Theo báo cáo về tiền lương toàn cầu 2014-2015 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), lương bình quân của Việt Nam ở mức 3,8 triệu đồng/tháng (181 USD), chỉ cao hơn Lào (119 USD), Campuchia (121 USD) và thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực ASEAN như Philippin (206 USD), Thái Lan (357 USD), Malaixia (609 USD), Xingapo (3.547 USD).
Nghiên cứu của Oxfam về tình trạng bất bình đẳng tại Việt Nam cho thấy, người giàu nhất Việt Nam có thu nhập trong một ngày cao hơn thu nhập của người nghèo nhất Việt Nam trong 10 năm. Trong một giờ, người giàu nhất Việt Nam có thu nhập từ nguồn tài sản cao hơn gần 5.000 lần thu nhập của nhóm 10% nghèo nhất Việt Nam chi hàng ngày cho các nhu cầu thiết yếu. Đáng chú ý, thu nhập một năm của nhóm 210 người siêu giàu ở Việt Nam dư sức để đưa 3,2 triệu người thoát nghèo, chấm dứt nghèo cùng cực trên cả nước.
Ngoài bất bình đẳng thu nhập - vốn dễ được nhận biết và đo lường, sự chia rẽ trong thị trường lao động cũng ngày càng sâu sắc, giữa những lao động trong ngành công nghiệp, xây dựng và ngành dịch vụ, giữa những người có công việc trong ngành dịch vụ ổn định, lương cao với những công việc bất ổn, lương thấp và dễ gây bất mãn. Ở nước ta, phần đông lao động đang ở nông thôn, làm nông nghiệp khiến cho vấn đề này càng trở nên trầm trọng hơn.
Các vấn đề về khả năng tiếp cận y tế, giáo dục, dịch vụ xã hội khác theo các tiêu chí của chuẩn nghèo đa chiều ở nước ta, vấn đề quan hệ lao động, tiêu chuẩn về điều kiện an toàn và vệ sinh lao động, công đoàn độc lập và bảo vệ quyền lao động… cũng được đặt ra.
Liên quan đến xu hướng thay đổi tác động đến năng suất và chất lượng nhân lực, Việt Nam không có nhiều lựa chọn để đưa ra chính sách và chiến lược phát triển kinh tế nói chung và nhân lực nói riêng.
Ngoài các giải pháp truyền thống được nêu trong tổng quan, liên quan đến chủ đề này, chúng tôi đề xuất rằng, trong cải cách thể chế ở Việt Nam cần thúc đẩy nhanh, đột phá quy mức độ thể chế hóa của thị trường lao động trong lĩnh vực dịch vụ, loại bỏ điểm nghẽn nhân lực đã tồn tại nhiều năm qua. Chính phủ thấy được vấn đề này nhưng vẫn vướng về ý thức hệ, phương thức thực hiện, cải cách mạnh mẽ nhưng không gây bất ổn định xã hội có ranh giới mong manh.
Tình trạng bao cấp, phi thị trường gây ra tắc nghẽn, tạo rào cản “vô hình” đối với tự do dịch chuyển lao động giữa các khu vực, các ngành kinh tế và các tổ chức, hạn chế tính cạnh tranh nhân lực, hệ quả là làm suy giảm động lực lao động và tính sáng tạo của nhân lực.
Chế độ biên chế là sản phẩm của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, đang cản trở quá trình chuyển đổi sang thị trường, kìm hãm tăng trưởng và tính năng động của nền kinh tế. Bộ máy nhà nước ngày càng phình to. Hơn thế, khoảng 55.000 các đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL) thuộc các khối Đảng, đoàn thể, trong các lĩnh vực kinh tế, giáo dục - đào tạo, y tế, khoa học - công nghệ, truyền thông-báo chí, văn hóa - thể thao - du lịch, tài nguyên - môi trường, lao động - thương binh - xã hội với 2,1 triệu viên chức đang hưởng lương, trợ cấp từ ngân sách nhà nước, làm cho ngân sách, trong đó chi thường xuyên chiếm gần 73%, luôn bội chi ở mức cao.
Số liệu báo cáo từ kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIV tại Hà Nội ngày 27/5/2017 cho thấy biên chế bộ máy năm 2016 tăng thêm gần 20,4 nghìn người so với năm 2015, “tinh giản biên chế chưa hiệu quả”. Cần có lời giải cho câu hỏi: Chủ trương này đã có từ nhiều năm nay, nhưng sao vẫn chưa đi vào cuộc sống?
Cần có một liệu pháp “sốc” mang tên ‘bỏ biên chế’ từ góc nhìn thị trường về cải cách thể chế thị trường lao động. Nghiên cứu cụ thể nên được khuyến khích bởi tính cấp thiết và tầm quan trọng của nó.
V.I. Lênin đã viết: “Trong bất cứ cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nào, khi giai cấp vô sản đã làm xong nhiệm vụ giành được chính quyền rồi, và trong chừng mực mà nhiệm vụ tước đoạt những kẻ đi tước đoạt và nhiệm vụ đập tan sự phản kháng của chúng đã được hoàn thành trên những nét chủ yếu và cơ bản, - thì tất nhiên có một nhiệm vụ căn bản khác được đề lên hàng đầu, đó là: thiết lập một chế độ xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản, nghĩa là nâng cao năng suất lao động, và do đó (và nhằm mục đích đó) phải tổ chức lao động theo một trình độ cao hơn”[11]. Ông cho rằng cần ban hành các sắc lệnh, đạo luật “sắt” để: “Nâng cao tinh thần kỷ luật của những người lao động, kỹ năng lao động của họ, tính khéo léo của họ, phải tăng thêm cường độ lao động và tổ chức lao động cho tốt hơn… Việc quần chúng xây dựng những nguyên tắc mới của kỷ luật lao động là một quá trình rất lâu dài… vì chủ nghĩa xã hội không thể thành công được nếu tính kỷ luật tự giác của giai cấp vô sản không thắng được tình trạng vô chính phủ tự phát của giai cấp tư sản”.
Một thế kỷ dần trôi qua, kể từ năm 1917, song ý nghĩa chính trị của nâng cao NSLĐ vẫn còn, tuy nhiên trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến đổi sâu sắc, khi hệ thống xã hội chủ nghĩa truyền thống không còn, thế giới đang trải qua cuộc cách mạng Tư bản 4.0[13], cần thiết có sự vận dụng sáng tạo tư tưởng của Lê Nin vào hoàn cảnh và thời đại hiện nay.
Thị trường với “bàn tay vô hình” thay thế cho sự giới hạn của tri thức, kinh tế thị trường được thúc đẩy bởi nguyên tắc động cơ lợi nhuận, làm giàu từ đó mà các dịch vụ được cung ứng và thỏa mãn. Các động cơ khác thúc đẩy hoạt động lao động là sự sợ hãi, cưỡng bức và vì người khác, vị tha với những chuẩn mực giá trị cao đẹp vẫn tồn tại, nhưng không “chủ đạo”, thời điểm, vụ việc. Những mặt trái của thị trường cần được khắc phục.
Thay lời kết
Cần thay đổi thực trạng nhân lực “đông nhưng không mạnh”, “thừa người nhưng thiếu tri thức”. Quốc gia giàu có nhờ tri thức, nhưng muốn có tri thức thì con người phải được tự do sáng tạo, quốc gia phải tạo lập thể chế cho điều này. Giới tinh hoa, hiền tài của xã hội phải được coi trọng bởi sự cống hiến, được công nhận bởi thị trường lao động. Góc nhìn thể chế về năng suất và chất lượng nhân lực nhấn mạnh yếu tố quan trọng hàng đầu để quốc gia thịnh vượng là tri thức, tri thức đích thực nảy sinh từ thị trường, thúc đẩy chất lượng nhân lực, từ đó nâng cao năng suất lao động. Xây dựng và hoàn thiện thể chế cần hướng tới điều này.