Ngân hàng - Bảo hiểm
Lo ngại nợ công tăng cao, BIDV đề xuất thành lập Ủy ban giám sát và kiểm soát nợ công
Hà Tâm - 13/06/2016 13:53
Trích dẫn ý kiến của các chuyên gia cho rằng, nợ công nước ta thực tế có thể đã vượt quá 100%, BIDV đề xuất một mô hình mới trong việc tổ chức vận động, thu hút và quản lý các dự án vay vốn nước ngoài.
Việc sử dụng nợ công thời gian qua còn bất cập, đầu tư dàn trải, hiệu quả không cao, nhất là đầu tư công và DNNN (Ảnh: Internet)

Nợ công Việt Nam có thể đã vượt quá 100%

Trung tâm Nghiên cứu, Ngân hàng BIDV vừa đưa ra báo cáo thực trạng nợ công tại Việt Nam giai đoạn 2011-2015 và đề xuất cho giai đoạn 2016-2020. 

Theo báo cáo, trong giai đoạn 2011- 2015, nợ công gia tăng nhanh chóng với mức 16,7%/năm. Theo đó, cuối năm 2015, về số tuyệt đối, dư nợ công lên đến 2.608 nghìn tỷ đồng, gấp 1,9 lần so với cuối năm 2011 (1.393 nghìn tỷ đồng). Về số tương đối, cuối năm 2015, nợ công/GDP ở mức 62,2%, áp sát ngưỡng kiểm soát 65% của Quốc hội.  

Đáng lưu ý, theo nhiều chuyên gia, quy mô nợ công thực tế có thể đã cao hơn so với mức công bố do cách thức xác định nợ công của Việt Nam và một số tổ chức quốc tế uy tín có sự khác biệt. Cụ thể, nợ công theo tiêu chuẩn Việt Nam dựa trên nguyên tắc: trách nhiệm thanh toán thuộc về chủ thể đi vay; còn nợ công theo tiêu chuẩn quốc tế được xác định trên cơ sở: chủ sở hữu thực sự hay pháp nhân đứng sau chủ thể đi vay phải có trách nhiệm thanh toán. Theo đó, nợ công theo tiêu chuẩn quốc tế sẽ bằng nợ công theo tiêu chuẩn Việt Nam cộng với nợ của: Ngân hàng Nhà nước (NHNN), các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), tổ chức bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội  và một số địa phương. Căn cứ theo tiêu chuẩn quốc tế, nhiều chuyên gia đưa ra ước tính và cho rằng tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam đã vượt mức 100%.

Theo thông lệ quốc tế, ngưỡng nợ công tối ưu (nhằm đảm bảo nợ công là động lực giúp tăng trưởng kinh tế) thông thường cho các nước phát triển là 90%, các nước đang phát triển có nền tảng tốt là 60% và có nền tảng kém là 30-40%. Vì vậy, mức ngưỡng nợ công/GDP được Quốc hội đề ra là 65% là phù hợp với thông lệ quốc tế; và việc vượt ngưỡng tối ưu có thể tiềm ẩn rủi ro.

Nợ trong nước đang nhiều hơn nợ nước ngoài

Các chuyên gia nghiên cứu của BIDV cho hay, trước đây, nợ công hầu hết là nợ nước ngoài hay vốn vay ODA với lãi suất từ 1% đến dưới 3%. Từ năm 2010, Việt Nam gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình nên nợ nước ngoài có mức độ ưu đãi giảm dần. Vì vậy, nợ công dịch chuyển sang nguồn vay trong nước, tăng từ 40% năm 2011 lên 57,1% năm 2015.

Cụ thể, nợ nước ngoài đạt bình quân 3 tỷ USD/năm, tương đương 11% tổng vốn đầu tư toàn xã hội hay 17% tổng vốn đầu tư từ NSNN. Nợ công trong nước thực hiện chủ yếu qua phát hành trái phiếu chính phủ.

Về quy mô, lượng phát hành giai đoạn 2011-2015 đã tăng gấp 2,5 lần giai đoạn 2006-2010. Về kỳ hạn, 3 năm đầu giai đoạn, trái phiếu chính phủ kỳ hạn ngắn (1-3 năm) chiếm khoảng 77% khối lượng phát hành hàng năm. Hệ quả là, từ năm 2014, một lượng lớn trái phiếu chính phủ đến hạn thanh toán và Chính phủ đang phải liên tục phát hành trái phiếu chính phủ mới do NSNN không thể đáp ứng. Vì vậy, nhằm tránh rủi ro trên, Quốc hội đưa ra quy định về kỳ hạn trái phiếu chính phủ là trên 5 năm vào năm 2015, theo đó, tỷ trọng trái phiếu chính phủ kỳ hạn dài đã tăng lên 46%. Tuy nhiên, kỳ hạn của trái phiếu chính phủ gia tăng cũng gây ra bất cập cho: người mua chính có nguồn vốn huy động ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn (khoảng 85% lượng phát hành là các ngân hàng thương mại (NHTM)); chi phí vốn của nền kinh tế có xu hướng tăng theo lãi suất trái phiếu chính phủ dài hạn.     

Đáng lưu ý, BIDV cho rằng, việc sử dụng nợ công thời gian qua còn nhiều bất cập, đầu tư dàn trải, hiệu quả không cao, nhất là đầu tư công và DNNN. Một phần đáng kể của nợ công được sử dụng để trả nợ thay cho đầu tư phát triển. Tỷ lệ trả nợ trong kỳ/dư nợ vay của Chính phủ và khoản vay được Chính phủ bảo lãnh ở mức khoảng 14,2% năm 2014 (số liệu mới nhất được Bộ Tài chính công bố) và lên đến 16% năm 2015 theo ước tính của Ngân hàng Thế giới (WB). Việc dành đến 14%-16% dư nợ công trong kỳ để trả nợ gây hạn chế đến đầu tư phát triển và chi để tăng năng suất lao động, giáo dục, y tế và các lĩnh vực thiết yếu khác.

Cơ cấu chi ngân sách không bền vững, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng nợ công: Trong giai đoạn, chi ngân sách chủ yếu là chi thường xuyên với mức tăng trưởng là 18,44%/năm. Ngược lại, chi đầu tư phát triển có xu hướng giảm, nhất là từ năm 2013 đến nay, chỉ ở mức 4,8%/năm.

Công tác quản lý nợ công có bước tiến nhưng vẫn còn hạn chế: Trong giai đoạn, công tác quản lý nợ công đã được cải thiện tuy nhiên, việc phân bổ mang tính chủ quan, dàn trải, hiệu quả thấp, số liệu thống kê không thống nhất, thiếu tính kịp thời, đặc biệt, việc quản lý ODA vẫn còn khá phức tạp.

Hiện nay, theo các tổ chức quốc tế và trong nước, khả năng vỡ nợ của Việt Nam là khá thấp. Tuy nhiên, trên thực tế, nợ công vẫn đang là vấn đề cấp bách. Thứ nhất, chỉ tiêu nợ phải trả (nợ gốc và lãi) có nguy cơ tiến sát vượt ngưỡng cảnh báo. Theo Bộ Tài chính, trong giai đoạn, nghĩa vụ trả nợ nước ngoài trung dài hạn/thu NSNN đã tăng lên 22,3% (ngưỡng an toàn 25%).Thứ hai, nghĩa vụ trả nợ tăng nhanh trong khi nguồn trả nợ công không bền vững. Thứ ba, áp lực trả nợ tác động tiêu cực của nợ công với nền kinh tế. 

Thành lập Ủy ban giám sát và kiểm soát nợ công

Trước rủi ro về nợ công, Trung tâm nghiên cứu BIDV đề xuất, cần có giải pháp hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nợ công thời gian tới.

Trước hết, xem xét thành lập Ủy ban giám sát và kiểm soát nợ công (trực thuộc Quốc hội). Ủy ban này có chức năng giám sát các vấn đề nợ công và NSNN. Giám sát, chỉ đạo hoạt động và sự phối hợp của các đơn vị liên quan tới các vấn đề trên. Cấp phép và giám sát hoạt động của các cơ quan chuyên môn cao được phép cung cấp dịch vụ tư vấn và đấu thầu cho dự án dùng vốn nợ công.

Bên cạnh đó, Ủy ban có nhiệm vụ tham mưu cho Quốc hội về việc Ban hành Luật, trong đó có quy định về đãi ngộ/chế tài đối với cá nhân liên quan tới hoạt động quản lý, sử dụng và giám sát nợ công. Phê duyệt và giám sát các quyết định về NSNN, khoản vay và cho vay từ nguồn nợ công với một giá trị tối thiểu cho trước; dưới mức ngưỡng này, Bộ Tài chính tự xử lý,  Ủy ban chỉ giám sát.

Ngoài ra, để quản lý tốt hơn nợ công, Bộ Tài chính cần đưa ra văn bản hướng dẫn thi hành Luật về nợ công, quản trị rõ ràng; Xây dựng hệ thống quốc gia về khai báo các khoản vay; Trong thẩm quyền được giao,  Bộ Tài chính tự ra quyết định về NSNN, phê duyệt các khoản vay và đầu tư trên cơ sở tham khảo ý kiến của các đơn vị tư vấn chuyên nghiệp đã được Ủy ban giám sát và kiểm soát nợ công  chấp thuận.

BIDV cũng đề nghị phải đổi mới trong quản lý vốn vay nước ngoài. Cụ thể, cần thông qua một đầu mối cho vay và quản lý ODA. Ngoài ra, theo kinh nghiệm của các nước phát triển, BIDV đề xuất một mô hình mới trong việc tổ chức vận động, thu hút và quản lý các dự án vay vốn nước ngoài: Lựa chọn một định chế tài chính có kinh nghiệm về tín dụng đầu tư phát triển (điển hình là BIDV), là đơn vị đầu mối chịu trách nhiệm thực hiện thẩm định, đề xuất cơ chế tài chính áp dụng đối với dự án, điều kiện vay áp dụng cho Dự án… Đơn vị này phải có kinh nghiệm trong việc quản lý các khoản vay nước ngoài, năng lực về tài chính để có thể chịu được rủi ro không ảnh hưởng đến NSNN.

Trong giai đoạn 2011- 2015, nợ công gia tăng nhanh chóng với mức 16,7%/năm. Theo đó, cuối năm 2015, về số tuyệt đối, dư nợ công lên đến 2.608 nghìn tỷ đồng, gấp 1,9 lần so với cuối năm 2011 (1.393 nghìn tỷ đồng). Về số tương đối, cuối năm 2015, nợ công/GDP ở mức 62,2%, áp sát ngưỡng kiểm soát 65% của Quốc hội.  

Đáng lưu ý, theo nhiều chuyên gia, quy mô nợ công thực tế có thể đã cao hơn so với mức công bố do cách thức xác định nợ công của Việt Nam và một số tổ chức quốc tế uy tín có sự khác biệt. Cụ thể, nợ công theo tiêu chuẩn Việt Nam dựa trên nguyên tắc: trách nhiệm thanh toán thuộc về chủ thể đi vay; còn nợ công theo tiêu chuẩn quốc tế được xác định trên cơ sở: chủ sở hữu thực sự hay pháp nhân đứng sau chủ thể đi vay phải có trách nhiệm thanh toán. Theo đó, nợ công theo tiêu chuẩn quốc tế sẽ bằng nợ công theo tiêu chuẩn Việt Nam cộng với nợ của: Ngân hàng Nhà nước (NHNN), các doanh nghiệp nhà nước (DNNN),[1] tổ chức bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội (ASXH) và một số địa phương. Căn cứ theo tiêu chuẩn quốc tế, nhiều chuyên gia đưa ra ước tính và cho rằng tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam đã vượt mức 100%.

Theo thông lệ quốc tế, ngưỡng nợ công tối ưu (nhằm đảm bảo nợ công là động lực giúp tăng trưởng kinh tế) thông thường cho các nước phát triển là 90%, các nước đang phát triển có nền tảng tốt là 60% và có nền tảng kém là 30-40%.[2]Vì vậy, mức ngưỡng nợ công/GDP được Quốc hội đề ra là 65% là phù hợp với thông lệ quốc tế; và việc vượt ngưỡng tối ưu có thể tiềm ẩn rủi ro.


[1] Luật Doanh nghiệp mới nhất có hiệu lực từ 01/07/2015 quy định: DNNN là do Nhà nước sở hữu 100% (tăng so với mức sở hữu từ 50% trở lên trước đó).

[2] Theo nghiên cứu “Does High Public Deblt Consistently Stifle Economic Growth? A Critique of Reinhart and Rogoff” của nhóm tác giả Herndon T., Ash M. và Pollin R. đăng trên tạp chí Cambridge Journal of Economics số 1/23 năm 2013.

Tin liên quan
Tin khác