- Quy định cấp thị thực, tạm trú, thường trú cho nhân lực nước ngoài tại Trung tâm tài chính quốc tế
- Quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư nước ngoài vào Trung tâm tài chính quốc tế
- Quy định về Trung tâm trọng tài quốc tế thuộc Trung tâm tài chính quốc tế
- Điều kiện để lập Sở giao dịch hàng hóa trong Trung tâm tài chính quốc tế
Đó là nhận định của TS. Nguyễn Trí Hiếu, Viện trưởng Viện nghiên cứu và Phát triển thị trường tài chính và bất động sản toàn cầu.
TS. Hiếu cho rằng, trong kỷ nguyên số, dù công nghệ và mạng xã hội phát triển mạnh mẽ, lĩnh vực tài chính - tiền tệ vẫn đòi hỏi sự tương tác trực tiếp giữa con người với con người.
Trung tâm tài chính quốc tế như một “siêu thị tài chính” - nơi tập trung các ngân hàng, quỹ đầu tư, tổ chức tài chính và cả các cơ quan quản lý nhà nước, tạo ra không gian gặp gỡ, giao dịch và ra quyết định trực tiếp. Việc Việt Nam định hướng xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại TP.HCM và Đà Nẵng, không chỉ là dự án kinh tế đơn thuần, mà còn là dấu mốc quan trọng, mang ý nghĩa lịch sử đối với sự phát triển của nền kinh tế và hệ thống tài chính quốc gia.
Theo đánh giá của TS. Hiếu, Việt Nam đang sở hữu nhiều lợi thế quan trọng. Đó là vị trí địa lý nằm trên trục giao thông hàng hải và hàng không chiến lược của thế giới, khu vực châu Á - Thái Bình Dương, quy mô GDP đạt khoảng 500 tỷ USD, xếp thứ 33 toàn cầu, quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 14 quốc gia, trong đó có 3 cường quốc là Mỹ, Trung Quốc và Nga. Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ trong hơn 30 năm qua.
Tuy nhiên, vị chuyên gia này cũng cho rằng, có nhiều khó khăn và thách thức. GDP bình quân đầu người của Việt Nam còn thấp, xếp khoảng hạng 120 thế giới. Sự hiện diện quốc tế của các ngân hàng Việt Nam còn hạn chế, chưa có mặt tại các trung tâm tài chính lớn như New York, London, Paris hay Tokyo, mà chủ yếu mới hiện diện tại Lào, Campuchia, Myanmar… Việt Nam cần định vị chiến lược Trung tâm tài chính quốc tế theo từng bước, phù hợp với năng lực và bối cảnh thực tế. Trước mắt, mục tiêu ngắn hạn là phục vụ thị trường Đông Nam Á, sau đó từng bước vươn ra toàn cầu.
| TS. Nguyễn Trí Hiếu |
“Việt Nam nên ưu tiên phát triển các lĩnh vực có tiềm năng như thị trường vốn, tài chính xanh, ESG, fintech, quản lý tài sản và quỹ đầu tư. Lộ trình được chia thành 3 giai đoạn rõ ràng: Giai đoạn 2026-2030 đặt nền móng, giai đoạn 2031-2035 tăng tốc phát triển và giai đoạn 2036-2045 hướng tới khẳng định vị thế trên bản đồ tài chính toàn cầu”, TS. Hiếu nói.
Để Trung tâm tài chính quốc tế vận hành hiệu quả, về hạ tầng, cần xây dựng hệ thống cao ốc hạng A+ thông minh, đồng bộ với hạ tầng số hiện đại. Tỷ lệ lấp đầy của trung tâm phải đạt tối thiểu 70-75% để tạo “sinh khí” cho hoạt động tài chính. Song song đó, cần thu hút sự hiện diện của các định chế tài chính lớn như JP Morgan, cùng các hãng luật và kiểm toán quốc tế.
Các chỉ tiêu kinh tế cũng được đặt ra rõ ràng, như phấn đấu vốn hóa thị trường đạt 100% GDP, tỷ trọng giao dịch của khối ngoại đạt 25-30% và thu hút khoảng 30.000 - 50.000 lao động làm việc tại Trung tâm tài chính quốc tế. Việt Nam đang từng bước nâng hạng tín nhiệm quốc gia. Đây được xem là điều kiện tiên quyết để thu hút mạnh mẽ dòng vốn quốc tế và tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam trong dài hạn..
Để Trung tâm tài chính quốc tế tại TP. HCM thành công, yếu tố minh bạch và uy tín phải được đặt lên hàng đầu. Nếu không đạt được sự minh bạch cao nhất, trung tâm sẽ khó lòng vận hành hiệu quả và thu hút được dòng vốn quốc tế bền vững. Bởi nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam, điều họ quan tâm nhất là quyền lợi của họ có được bảo vệ hay không. Chính chuyện đó ảnh hưởng rất lớn đến niềm tin của nhà đầu tư, không chỉ nhà đầu tư nước ngoài, mà cả nhà đầu tư trong nước.
Đề xuất và giải pháp cho trung tâm tài chính
Trong ngày 21/12, Chính phủ tổ chức công bố thành lập Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam, ra mắt Hội đồng điều hành và cơ quan điều hành tại TP.HCM và Đà Nẵng. Các chuyên gia cho rằng, trong bối cảnh toàn cầu hóa, chuyển dịch chuỗi giá trị và vốn quốc tế diễn ra mạnh mẽ, việc xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại TP.HCM không chỉ là yêu cầu khách quan của quá trình phát triển, mà còn là khát vọng, là bước đi chiến lược nhằm nâng tầm vị thế của Việt Nam nói chung và của TP.HCM nói riêng trên bản đồ tài chính toàn cầu.
Hiện tại, quy mô thị trường chứng khoán Việt Nam khoảng 390 tỷ USD, tương đương 82% GDP. Dư nợ toàn thị trường khoảng 400.000 tỷ đồng, cho thấy mức độ tham gia rất lớn của nhà đầu tư tổ chức, các quỹ đầu tư trong nước.
Theo giới phân tích tài chính, TP.HCM có lợi thế rất lớn khi sàn HoSE chiếm khoảng 64% tổng vốn hóa toàn thị trường. Khi Trung tâm tài chính quốc tế hình thành, các định chế tài chính, quỹ đầu tư sẽ cần một hệ sinh thái để triển khai vốn và thị trường chứng khoán chính là một trụ cột quan trọng. Ước tính ban đầu có thể khoảng 1 tỷ USD, và đến năm 2030, tổng dòng vốn từ các quỹ có thể đạt 10-20 tỷ USD. Khi lên thị trường mới nổi, dòng vốn sẽ có chất lượng cao hơn, quy mô lớn và ổn định hơn.
Để Trung tâm tài chính quốc tế hoạt động hiệu quả, TS. Nguyễn Trí Hiếu cho rằng, muốn tăng cường niềm tin cho nhà đầu tư, thì phải giải bài toán về giải quyết tranh chấp, phải chuyên môn hóa và tăng tốc độ của hệ thống tư pháp. Các ngân hàng hoạt động tại Trung tâm phải trở thành "one-stop shopping" hoặc một "siêu thị tài chính". Những đơn vị này cần hội đủ kỹ năng để giao tiếp với cả nhà đầu tư trong và ngoài nước, cung cấp đầy đủ dịch vụ từ bán lẻ đến bán buôn, đặc biệt là am hiểu sâu về thương mại quốc tế, L/C và các định chế tài chính toàn cầu.
Nhân sự đại diện tại đây phải là những chuyên gia hàng đầu của ngân hàng. Thái độ chuyên nghiệp, cần sự nghiêm trang và nhiệt tình như tiêu chuẩn tại các trung tâm tài chính lớn như New York, thay vì thái độ không rõ ràng khi giao tiếp với chuyên gia nước ngoài.
Một vấn đề rất quan trọng nữa là Việt Nam cần áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS). Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã áp dụng IFRS, nhưng Việt Nam vẫn chưa triển khai đầy đủ. Nếu không áp dụng IFRS thì rất khó để hội nhập sâu vào hệ thống tài chính quốc tế.