Ngân hàng - Bảo hiểm
Nhà băng rục rịch hạ lãi vay, chuyên gia khuyến cáo tăng bơm tiền, công ty tài chính khốn đốn đòi nợ
T.L - 28/05/2023 09:48
Sở hữu chéo vẫn phức tạp, ngân hàng rục rịch hạ lãi vay; chuyên gia khuyến cáo NHNN tăng cung tiền, công ty tài chính khốn đốn đòi nợ... là tâm điểm ngân hàng tuần qua.

Giảm một loạt lãi suất điều hành, trần lãi suất tiền gửi giảm còn 5%/năm

Ngày 23/5,  NHNN ban hành Quyết định số 950/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với TCTD.

Theo đó, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với TCTD giảm từ mức 6,0%/năm xuống 5,5%/năm; lãi suất tái cấp vốn giảm từ mức 5,5%/năm xuống 5,0%/năm; lãi suất tái chiết khấu giữ nguyên ở mức 3,5%/năm.  

Cùng ngày, NHNN cũng ban hành Quyết định số 951/QĐ-NHNN ngày 23 tháng 5 năm 2023 về mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam (VND) của tổ chức, cá nhân tại TCTD theo quy định tại Thông tư số 07/2014/TT-NHNN ngày 17 tháng 3 năm 2014.

 Theo đó, lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng giữ nguyên ở mức 0,5%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng giảm từ mức 5,5%/năm xuống 5,0%/năm, riêng lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng VND tại Quỹ tín dụng nhân dân, Tổ chức tài chính vi mô giảm từ mức 6,0%/năm xuống 5,5%/năm; lãi suất tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên do TCTD ấn định trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường.

NHNN cho biết thời gian qua, triển vọng kinh tế toàn cầu phục hồi thiếu chắc chắn, lạm phát giảm chậm, rủi ro hệ thống ngân hàng phát sinh ở một số nền kinh tế lớn và nguy cơ suy thoái kinh tế khiến nhiều NHTW điều chỉnh chậm lại đà tăng lãi suất. Trong nước, tăng trưởng kinh tế còn nhiều khó khăn, lạm phát được kiểm soát; thanh khoản của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (TCTD) được đảm bảo.

Do đó, tiếp tục thực hiện chủ trương của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về giảm mặt bằng lãi suất, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp tăng khả năng tiếp cận vốn, góp phần phục hồi sản xuất kinh doanh, NHNN đã ra quyết định giảm lãi suất điều hành.

Dư địa giảm tiếp lãi suất không còn nhiều, giảm nữa có thể gây đảo chiều dòng vốn

Trước quyết định giảm lãi suất điều hành của NHNN, các chuyên gia kinh tế đưa ra những góc nhìn, nhận định khác nhau.

TS. Nguyễn Hữu Huân, (Đại học Kinh tế TP.HCM) cho rằng,  việc giảm lãi suất điều hành chưa thể tác động tích cực ngay đến nền kinh tế, mà cần độ trễ ít nhất vài quý tới.

“Phải sang quý III, IV/2023 may ra nền kinh tế mới có dấu hiệu khởi sắc. Ngân hàng hạ lãi suất nhưng thị trường không có, đầu ra và đơn hàng chưa có thì doanh nghiệp cũng không biết vay tiền để làm gì. Chính vì vậy, tôi cho rằng, chính sách tiền tệ đã có độ bão hòa nhất định, không còn nhiều dư địa thời gian tới. Giai đoạn này cần tập trung vào chính sách tài khóa, kích cầu, đặc biệt là phải kích cầu vào khu vực công, bởi khu vực tư nhân hiện nay đang rất yếu. Hiện giải ngân đầu tư công, chi tiêu công gặp nhiều vướng mắc bởi tâm lý sợ trách nhiệm, song nếu không đẩy mạnh giải ngân, rất khó kích cầu nền kinh tế”, TS. Huân nhận định.

TS. Nguyễn Hữu Huân, (Đại học Kinh tế TP.HCM)

Trong bối cảnh cầu yếu như hiện nay, chuyên gia này cho rằng, giảm lãi suất không phải là yếu tố quyết định. Nếu lãi suất giảm mà công tác mở cửa thị trường, cải cách môi trường kinh doanh… không có biến chuyển thì doanh nghiệp cũng sẽ khó vực dậy. Để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng, cần có nhiều giải pháp đồng bộ.

Mức độ giảm lãi suất điều hành 0,5% lần này, theo các chuyên gia là hợp lý, không gây cú sốc cho người gửi tiền cũng như hệ thống ngân hàng thương mại và cả nền kinh tế.

Mặc dù lãi suất điều hành còn có thể giảm thêm, song theo TS. Nguyễn Hữu Huân, dư địa giảm không còn nhiều, tối đa chỉ còn khoảng 1% nếu tình hình thuận lợi.

“Lãi suất giảm nhiều hơn có thể gây ra rủi ro đảo chiều dòng vốn. Theo tôi, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp hiện nay phải tập trung chính sách tài khóa: đẩy mạnh chi tiêu công, giảm thuế GTGT cho người dân để kích cầu.  Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ phải đồng bộ, hỗ trợ nhau mới tạo hiệu quả. Nếu hai cánh kéo mà một bên kéo, một bên nghỉ thì rất khó kéo tăng trưởng nền kinh tế", TS. Nguyễn Hữu Huân nhận định.

Theo Ngân hàng Nhà nước, việc tiếp tục điều chỉnh giảm thêm 0,5% lãi suất điều hành từ 25/5 là giải pháp linh hoạt, phù hợp với điều kiện thị trường hiện nay để hỗ trợ quá trình phục hồi tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Quốc hội và Chính phủ, qua đó tiếp tục định hướng giảm mặt bằng lãi suất cho vay của thị trường, góp phần tháo gỡ khó khăn chongười vay vốn ngân hàng.

Đồng thời, việc điều chỉnh giảm trần lãi suất tiền gửi bằng VND các kỳ hạn từ 1 đến dưới 6 tháng cũng hỗ trợ các tổ chức tín dụng giảm chi phí đầu vào, từ đó có điều kiện thuận lợi giảm lãi suất cho vay, tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp và người dân, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Thời gian tới, lạm phát toàn cầu được dự báo duy trì ở mức cao, các ngân hàng trung ương tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ; trong nước, lạm phát chung và lạm phát cơ bản cùng xu hướng giảm nhưng lạm phát cơ bản vẫn tương đối cao. Do đó, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục theo dõi sát diễn biến trong nước, quốc tế, dự báo lạm phát và lãi suất thị trường để điều hành lãi suất phù hợp; tiếp tục có giải pháp khuyến khích các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh. 

PGS-TS. Nguyễn Thường Lạng (Trường đại học Kinh tế quốc dân) cũng nhận định, động thái giảm lãi suất điều hành thể hiện sự điều hành linh hoạt, uyển chuyển, kịp thời, phù hợp với tình hình thực tế của NHNN.

Theo chuyên gia này, trong trường hợp mức độ hấp thụ vốn gia tăng, lãi suất huy động có thể hạ xuống ngang với mức lạm phát, tức là từ bỏ quan điểm lãi suất thực dương như nhiều nước trên thế giới vẫn làm.

Khi lãi suất huy động thấp, doanh nghiệp mới có cơ hội tiếp cận lãi suất cho vay thấp, mới tạo ra nhiều việc làm, thu nhập cho người lao động. Người dân khi gửi tiền thấy không có lợi, thì đầu tư, kinh doanh hoặc chi tiêu, khiến cầu tăng, qua đó thực hiện chính sách kích cầu.

Bên cạnh đó, chính sách tiền tệ không bao giờ tách khỏi chính sách tài khóa và ngược lại. Từ khi nền kinh tế gặp khó khăn do Covid-19, chính sách tài khóa được điều hành linh hoạt hơn, nhưng vẫn khá chậm so với thực tế và so với chính sách tiền tệ.

Trong chính sách tài khóa, thì gia hạn tiền thuế, tiền thuê đất và giảm thuế giá trị gia tăng được xem là hiệu quả nhất, vì đến được trực tiếp doanh nghiệp và người tiêu dùng, nhưng chính sách này được ban hành khá chậm. Năm ngoái, cuối tháng 1/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định 15/2022/NĐ-CP để giảm thuế giá trị gia tăng từ 10% xuống 8%, thì năm nay, việc giảm thuế mới được trình Quốc hội thảo luận. Hy vọng, Quốc hội chấp thuận đề xuất giảm thuế giá trị gia tăng để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và gián tiếp cải thiện thu nhập cho người dân.

Giảm lãi suất, ngân hàng đứng trước áp lực suy giảm tiền gửi

Sau 3 đợt cắt giảm liên tiếp của Ngân hàng Nhà nước, lãi suất điều hành đã giảm về mức trước Covid-19. Lãi suất cho vay dự kiến giảm về mức trước dịch sau vài tháng nữa, khi các ngân hàng thương mại “hấp thụ” hết lượng vốn giá cao trước đây.

Từ ngày 25/5, Ngân hàng Nhà nước (NHNN)  chính thức giảm thêm một loạt lãi suất điều hành trong bối cảnh kinh tế thế giới có biểu hiện suy thoái, lạm phát trong nước hạ nhiệt từ đỉnh, doanh nghiệp suy yếu. Đây là lần cắt giảm lãi suất thứ 3 liên tiếp từ đầu năm đến nay. Với mức cắt giảm lần này, trần lãi suất huy động trở về mức trước khi Covid-19 diễn ra. Tuy vậy, theo tính toán của các chuyên gia phân tích, lãi suất cho vay bình quân vẫn cao hơn trước dịch khoảng 1%.

Việc NHNN liên tục giảm lãi suất điều hành cho thấy quyết tâm của nhà điều hành trong giảm lãi suất cho vay. Trong 3 lần cắt giảm lãi suất điều hành của NHNN từ đầu năm đến nay, có tới 2 lần giảm trần lãi suất huy động. Giảm trần lãi suất huy động là cơ sở để các ngân hàng thương mại giảm chi phí đầu vào, từ đó giảm lãi suất cho vay. Ngay sau khi NHNN giảm lãi suất điều hành, các ngân hàng thương mại đồng loạt điều chỉnh lãi suất huy động. Tuy nhiên, theo dự báo của các chuyên gia, lãi suất cho vay cần thêm vài tháng nữa mới có thể hạ nhiệt.

Ông Đỗ Bảo Ngọc, Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần Chứng khoán Kiến Thiết Việt Nam nhận định, giảm lãi suất sẽ hỗ trợ tích cực tới doanh nghiệp và nền kinh tế. Tuy vậy, lãi vay chưa thể giảm ngay, mà cần thêm vài tháng nữa, khi ngân hàng “hấp thụ” hết nguồn vốn huy động với giá cao trước đây. 

Cùng với động thái hạ lãi suất điều hành, NHNN cũng ban hành Chỉ thị 02/CT-NHNN, yêu cầu các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí để giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ sản xuất, kinh doanh. Hôm qua (25/5), NHNN cũng họp khẩn với các tổ chức tín dụng, quán triệt tinh thần giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ nền kinh tế. 

Mặc dù việc giảm lãi suất được các doanh nghiệp vui mừng, song trong bối cảnh đơn hàng giảm 30 - 40% như hiện nay, nhiều doanh nghiệp mong chờ được cơ cấu nợ, giãn nợ hơn là tiếp cận vốn mới. Với tình hình này, nhiều khả năng tín dụng cũng chưa thể bật tăng trở lại dù lãi suất cho vay có giảm thêm 1-2% nữa.

Hiện nay, NHNN đang thúc các ngân hàng thương mại nhanh chóng triển khai Thông tư 02/2023/TT-NHNN về cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ. Mặc dù vậy, PGS-TS. Đinh Trọng Thịnh cho rằng, không phải doanh nghiệp nào cũng được cơ cấu nợ. “Việc cơ cấu nợ không chỉ tùy thuộc vào khả năng trả nợ nếu được cơ cấu của doanh nghiệp, mà còn tùy thuộc vào năng lực tài chính của ngân hàng”, PGS-TS. Đinh Trọng Thịnh nhận định.

Mặc dù NHNN cho biết thanh khoản hệ thống đang dồi dào, song thực tế, ngoại trừ nhóm big 4, rất nhiều ngân hàng TMCP nhỏ đang chịu áp lực lớn về huy động vốn. Ngoài cho vay, các ngân hàng đang rất “khát” vốn để xử lý nợ xấu, tái cơ cấu... Đây là lý do vì sao một số ngân hàng vẫn duy trì lãi suất tiền gửi xấp xỉ 9% trên thị trường.

Dù từ đầu năm đến nay, tín dụng tăng chậm, song tốc độ tăng trưởng vẫn cao hơn nhiều tốc độ huy động vốn. Theo NHNN, tăng trưởng huy động vốn đến ngày 27/4/2023 chỉ đạt 1,78% so với đầu năm, chỉ bằng một nửa tốc độ tăng trưởng tín dụng 3,04%

TS. Nguyễn Tú Anh, chuyên gia kinh tế cho biết, quý I/2023, huy động vốn ngành ngân hàng thấp hơn rất nhiều so với tốc độ bình quân trong 10 năm trở lại đây. Huy động vốn khu vực tổ chức kinh tế giảm trong khi tín dụng tăng chậm phản ánh tình trạng thanh khoản khó khăn của doanh nghiệp; những doanh nghiệp tốt có dư thừa thanh khoản đã phải rút tiền gửi về để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của bản thân. Rất có thể, tình hình này sẽ còn gia tăng thời gian tới.

Thanh khoản ngân hàng đang khá tốt, được hỗ trợ lớn bởi nguồn đầu tư công chưa thể giải ngân (nguồn tiền này chủ yếu nằm ở NHNN và nhóm big 4). Xét trên toàn thị trường, các ngân hàng không dư giả vốn. Cũng theo số liệu mà NHNN cung cấp, trong 4 tháng đầu năm, các ngân hàng đã sử dụng gần như tối đa nguồn huy động cho phép để cho vay (chênh lệch tiền gửi và tín dụng bằng VND chỉ vỏn vẹn 167.000 tỷ đồng); tỷ lệ tín dụng/huy động vốn thị trường 1 bằng VND ở mức 101,45% (tức tiền ngân hàng cho vay cao hơn cả tiền huy động trên thị trường 1). Trong đó, vốn huy động của ngân hàng có tới 88% là ngắn hạn, tiềm ẩn rủi ro kỳ hạn lớn.

Thêm vào đó, theo các chuyên gia phân tích, dư địa để NHNN giảm thêm lãi suất điều hành thời gian tới là khá eo hẹp, do trần lãi suất huy động hiện tại đã bằng với lạm phát cơ bản trong nước. Người dân vẫn luôn có tâm lý kỳ vọng lãi suất thực dương, nên lãi suất giảm sâu, có thể tiền sẽ chảy ra khỏi hệ thống ngân hàng.

“Nếu giảm sâu quá thì thanh khoản hệ thống ngân hàng sẽ khó khăn do người dân thấy tiền gửi lãi suất thấp sẽ đầu tư vào các lĩnh vực khác”, TS. Cấn Văn Lực nhận định.

Mặc dù lãi suất cho vay có thể giảm thêm thời gian tới, song với sức khỏe doanh nghiệp yếu đi, điều kiện giải ngân không được “nới”, nhiều khả năng tín dụng sẽ tiếp tục tăng chậm.

Nhiều chuyên gia kinh tế đều cho rằng, chỉ giảm lãi suất chưa thể cứu doanh nghiệp mà cần thêm các giải pháp đồng bộ khác như giảm thuế, tăng an sinh xã hội… để kích cầu, tăng tổng cầu cho nền kinh tế, bù đắp phần nào sự sụt giảm nhu cầu bên ngoài. 

Về phía ngân hàng, sau 2 năm “đỉnh cao” về lợi nhuận, năm nay các ngân hàng cũng phải chấp nhận giảm lợi nhuận để đồng hành, hỗ trợ nền kinh tế. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng phải sẵn sàng các giải pháp về nguồn vốn trong bối cảnh tiền gửi có nguy cơ giảm đi.

Giảm lãi suất điều hành không còn là “át chủ bài”?

Lãi suất điều hành giảm thêm 0,5%/năm, tạo cơ cở để lãi vay tiếp tục giảm. Dù vậy, các chuyên gia cho rằng, việc hạ lãi suất điều hành cũng không có nhiều ý nghĩa nếu Ngân hàng Nhà nước không có giải pháp tăng cung tiền ra nền kinh tế.

Hơn một tháng nay, làn sóng giảm lãi suất huy động đã diễn ra tại hàng loạt ngân hàng. Mặc dù vậy, mặt bằng lãi suất cho vay vẫn đang đứng ở mức cao trong bối cảnh tình hình kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng xấu đi.

Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, ông Hồ Tấn Tài, Phó tổng Giám đốc Ngân hàng ACB cho hay, chủ trương của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) là khuyến khích các ngân hàng thương mại cổ phần giảm lãi suất cho vay, nhưng giảm ở mức độ nào còn tùy thuộc sức khỏe tài chính, chi phí lãi suất đầu vào cũng như chiến lược khách hàng của từng ngân hàng.

“Kinh doanh vốn, không ngân hàng nào muốn cho vay lãi suất cao, song việc giảm lãi suất còn tùy thuộc giá vốn đầu vào, tùy thuộc mặt bằng chung và diễn biến thị trường thế giới. Mặc dù vậy, về xu hướng, theo tôi, lãi suất cho vay thời gian tới sẽ giảm thêm”, ông Hồ Tấn Tài nhận định.

Thực tế, dù tín dụng tăng chậm, nhưng lãi vay khó giảm vì hệ thống ngân hàng không quá dư thừa vốn. Tiền gửi tăng chậm trong khi nhu cầu vốn của ngân hàng rất lớn (cho vay, xử lý nợ xấu, tái cơ cấu…), buộc các ngân hàng phải huy động vốn với lãi suất cao.

Thứ nhất, hiện các ngân hàng đã sử dụng gần như tối đa nguồn huy động cho phép để cho vay (chênh lệch tiền gửi và tín dụng bằng VND chỉ vỏn vẹn 167.000 tỷ đồng); tỷ lệ tín dụng/huy động vốn thị trường 1 bằng VND ở mức 101,45% (tức tiền ngân hàng cho vay cao hơn cả tiền huy động trên thị trường 1). Trong đó, vốn huy động của ngân hàng có tới 88% là ngắn hạn, tiềm ẩn rủi ro kỳ hạn lớn.

Thứ hai, lạm phát cơ bản trong nước tăng 4,9%, người dân vẫn kỳ vọng lãi suất thực dương, nên để thu hút tiền gửi, tổ chức tín dụng sẽ khó giảm lãi suất. Ngoài ra, huy động vốn tăng chậm hơn nhiều so với tăng trưởng tín dụng. Huy động vốn đến ngày 27/4/2023 tăng 1,78%, chỉ bằng 50% so với tốc độ tăng trưởng tín dụng 3,04%.

Thứ ba, Thông tư số 02/2023/TT-NHNN mới ban hành cho phép cơ cấu nợ khiến các tổ chức tín dụng chưa thể thu nợ đến hạn trong khi vẫn phải đảm bảo chi trả tiền gửi, làm giảm doanh số cho vay và chậm lại vòng quay vốn trong nền kinh tế, gây áp lực trở lại lên khả năng cân đối vốn và dư địa giảm lãi suất.

Chưa kể, hệ thống ngân hàng vẫn đang trong quá trình tái cơ cấu, nâng cấp chuẩn mực quản trị điều hành theo thông lệ quốc tế…, một số ngân hàng thương mại quy mô nhỏ duy trì lãi suất tiền gửi ở mức cao để giữ khách hàng cũng làm cho việc giảm mặt bằng lãi suất cho vay trở nên khó khăn hơn.

Ngoài ra, xu hướng tăng lãi suất trên thế giới có thể chưa dừng lại. Trong bối cảnh này, NHNN cho biết sẽ theo dõi, cân nhắc giảm lãi suất điều hành, song chỉ trong điều kiện cho phép. Nhiều khả năng, quyết định giảm lãi suất sẽ được NHNN đưa ra sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có động thái cụ thể trong phiên họp vào tháng 6 tới.

Chia sẻ với phóng viên Báo Đầu tư, TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế cho rằng, từ đầu năm đến nay, tăng trưởng cung tiền quá thấp, vòng quay của tiền chỉ còn 0,64 vòng/năm. Từ đầu năm đến nay, NHNN bơm ra 140.000 tỷ đồng để mua vào USD, song con số này là chưa đủ và cũng không hẳn là bơm tiền vào nền kinh tế.

TS.Lê Xuân Nghĩa 

“Hạ lãi suất điều hành chỉ là hình thức, không có nhiều ý nghĩa. Muốn giảm lãi suất cho vay, NHNN buộc phải tăng cung tiền, phải bơm mạnh tiền ra nền kinh tế. Tăng cung tiền trong bối cảnh hiện nay là phải tăng cung tiền cơ sở (tức in thêm tiền), chứ không phải tiền gửi, thì lãi suất cho vay mới giảm được. Tất nhiên, NHNN phải tính toán trên cơ sở lạm phát có đáng lo ngại không. Theo tôi, trong bối cảnh tín dụng và cung tiền thấp như hiện nay, NHNN đang có cơ hội để tăng cung tiền cơ sở”, TS. Lê Xuân Nghĩa nói.

Mặc dù tăng cung tiền cơ sở (base money) là giải pháp hữu hiệu nhất để hạ lãi suất, song nhiều chuyên gia phân tích cho rằng, NHNN sẽ rất thận trọng với lựa chọn này, nhất là trong bối cảnh nhiều quan chức Fed lại tiếp tục đề xuất tăng lãi suất tháng 6 tới.

Ngân hàng thương mại đồng loạt lên tiếng khẳng định sẽ giảm lãi suất cho vay

Sau khi Ngân hàng Nhà nước giảm lãi suất điều hành thêm 0,5% áp dụng từ hôm nay (25/5), hàng loạt ngân hàng thương mại lên tiếng ủng hộ và cho biết sẽ giảm lãi suất cho vay.

Trao đổi với báo chí, ông Lê Quang Vinh, Phó tổng giám đốc Vietcombank cho hay, thời gian qua, ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo chính sách tiền tệ rất kinh hoạt, kịp thời, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại có thể hỗ trợ nhiều hơn cho khách hàng của mình. Đối với lần giảm lãi suất lần này Ngân hàng Nhà nước, Vietcombank cho rằng, đây là quyết định đúng thời điểm, Vietcombank sẽ nhanh chóng triển khai giảm lãi vay cho khách hàng.

Từ đầu năm đến nay, Vietcombank đã 2 lần giảm lãi suất rất lớn, một là từ ngày 1/1 - 30/4, Vietcombank giảm đồng loạt 0,5% trên số lượng khách hàng được giảm lãi suất là 130.000 khách hàng, với số tiền lãi suất được giảm tương đương 800.000 tỷ đồng.  Đợt 2 triển khai từ ngày 1/5 - 31/7, với số lượng khách hàng được giảm lãi suất khoảng 110.000 khách hàng, quy mô dư nợ được hạ lãi suất là khoảng 700.000 tỷ đồng. Ngân hàng sẽ tiếp tục giảm lãi suất cho vay thời gian tới.

“Khi mặt bằng lãi suất huy động được giảm đồng đều thì đương nhiên lãi suất cho vay cũng sẽ giảm tương ứng. Vietcombank cũng đang theo sát và sẽ khẩn trương triển khai đợt giảm lãi suất để đảm bảo đáp ứng đúng nhu cầu của nền kinh tế, của người dân, cũng như là hỗ trợ tốt hơn cho sự phát triển chung”, ông  Lê Quang Vinh cho biết.

Trong khi đó, tân Tổng giám đốc MB - ông Phạm Như Ánh cũng cho rằng, trong bối cảnh thị trường hấp thu vốn rất yếu và kinh tế rất khó khăn như hiện nay, việc giảm lãi suất điều hành giảm là rất kịp thời, hỗ trợ cho không chỉ khách hàng mà cả các ngân hàng thương mại.

Theo thông tin của lãnh đạo MB, sau khi Ngân hàng Nhà nước giảm lãi suất điều hành, MB sẽ tiếp tục có những chính sách mới để hỗ trợ khách hàng trong thời gian tới.

“Tăng trưởng tin dụng của MB từ đầu năm đến nay khoảng 6,5%, chúng tôi kỳ vọng  với mặt bằng lãi suất mới thấp hơn, chúng tôi sẽ đạt được mức tăng trưởng tin dụng tốt hơn trong các tháng còn lại. Dự kiến hết tháng 6, tốc độ tăng trưởng của MB sẽ đạt mức 9%”, ông Phạm Như Ánh thông tin.

Mặc dù khẳng định lãi vay sẽ giảm dần, song lãnh đạo các ngân hàng thương mại cũng cho rằng, cần thêm thời gian để ngân hàng hạ chi phí vốn. Trên thực tế, hiện nhiều ngân hàng vẫn đang tồn lượng vốn huy động lãi suất cao thời gian qua và cần thời gian để huy động nguồn vốn lãi suất thấp cũng như "tiêu thụ" nguồn vốn chi phí cao huy động từ trước. 

“Các ngân hàng thương mại đã cố gắng tiết kiệm vốn và chi phí tối đa để có cơ hội giảm lãi suất cho vay, song chi phí vốn là yếu tố chiếm cấu phần lớn nhất của lãi suất cho vay nên chỉ khi  giảm được chi phí vốn, ngân hàng mới có thể giảm đáng kể lãi suất cho vay”, ông Nguyễn Hưng, Tổng giám đốc TPBank lý giải

Được biết, tín dụng tại TPBank đến thời điểm này tăng hơn 5%. Tổng giám đốc TPBank kỳ vọng, nếu lãi suất rẻ đi, cầu của doanh nghiệp, người dân sẽ tăng lên.     

Theo Ngân hàng Nhà nước, việc tiếp tục điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành là giải pháp linh hoạt, phù hợp với điều kiện thị trường hiện nay để hỗ trợ quá trình phục hồi tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Quốc hội và Chính phủ, qua đó tiếp tục định hướng giảm mặt bằng lãi suất cho vay của thị trường, góp phần tháo gỡ khó khăn chongười vay vốn ngân hàng.

Đồng thời, việc điều chỉnh giảm trần lãi suất tiền gửi bằng VND các kỳ hạn từ 1 đến dưới 6 tháng cũng hỗ trợ các tổ chức tín dụng giảm chi phí đầu vào, từ đó có điều kiện thuận lợi giảm lãi suất cho vay, tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp và người dân, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Thời gian tới, lạm phát toàn cầu được dự báo duy trì ở mức cao, các ngân hàng trung ương tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ; trong nước, lạm phát chung và lạm phát cơ bản cùng xu hướng giảm nhưng lạm phát cơ bản vẫn tương đối cao. Do đó, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục theo dõi sát diễn biến trong nước, quốc tế, dự báo lạm phát và lãi suất thị trường để điều hành lãi suất phù hợp; tiếp tục có giải pháp khuyến khích các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh.

Ngân hàng Nhà nước đã bơm trả thị trường gần 60.000 tỷ đồng, thanh khoản thêm dồi dào

Từ đầu tuần đến nay, NHNN đã bơm ròng gần 40.000 tỷ đồng ra thị trường, chưa kể 20.000 tỷ đồng tuần trước. Như vậy, NHNN đã bơm “trả” cho thị trường hơn một nửa trong tổng số 110.700 tỷ đồng đã hút về trước đó qua kênh tín phiếu.

Hôm qua (25/5), trên kênh cầm cố, NHNN chào thầu ở hai kỳ hạn 7 ngày và 28 ngày, khối lượng 10.000 tỷ đồng/ kỳ hạn đều với lãi suất giữ ở mức 4,5%. Không có khối lượng trúng thầu ở cả hai kỳ hạn; không có đáo hạn. NHNN không chào thầu tín phiếu NHNN, có 9.000 tỷ đồng tín phiếu đáo hạn. Như vậy, riêng trong ngày hôm qua, NHNN đã bơm ròng 9.000 tỷ đồng ra thị trường.

Trong 3 ngày đầu tuần này, NHNN liên tục chào thầu mỗi phiên 10.000 tỷ đồng song không có khối lượng trúng thầu. Mặc dù vậy, NHNN vẫn bơm ròng 30.000 tỷ đồng ra thị trường trong 3 phiên do mỗi phiên có 10.000 tỷ đồng tín phiếu đáo hạn.

Trong 4 ngày đầu tuần, NHNN đã bơm ròng 39.000 tỷ đồng ra thị trường. Tuần trước (15/5-19/5), NHNN cũng đã bơm trả thị trường 20.000 tỷ đồng cho 2 lô tín phiếu đáo hạn.

Như vậy, 59.000 tỷ đồng trong tổng số hơn 110.700 tỷ đồng hút về trước đó đã được ngân hàng Nhà nước (NHNN) bơm trả lại hệ thống ngân hàng thông qua đáo hạn các lô tín phiếu.

Trước đó, từ ngày 15/2, NHNN đã triển khai việc phát hành tín phiếu kỳ hạn 91 ngày để hút bớt thanh khoản hệ thống trong bối cảnh lãi suất liên ngân hàng liên tục giảm sâu. Sau gần 1 tháng ròng rã hút thanh khoản, lượng tín phiếu 91 ngày lưu hành đến giữa tháng 3 đạt gần 110.700 tỷ đồng.

Các lô tín phiếu này sẽ lần lượt được đáo hạn từ nay đến giữa tháng 6/2023, giúp thanh khoản hệ thống ngân hàng dồi dào hơn, góp phần làm giảm lãi suất trên thị trường, cộng hưởng với việc lãi suất điều hành vừa giảm.

Do thanh khoản hệ thống dồi dào, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng giảm mạnh. Ngày 25/05, lãi suất chào bình quân liên ngân hàng VND giảm 0,08 – 0,18 điểm phần trăm ở tất cả các kỳ hạn từ 1 tháng trở xuống so với phiên trước đó. Lãi suất qua đêm phiên hôm qua còn 4,18%. Sáng nay, lãi suất cho vay qua đêm giảm về sát mức 4%/năm.

Bùng nợ" của công ty tài chính tăng vọt, VNBA kiến nghị tháo gỡ

Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) kiến nghị tháo gỡ trước tình hình thu hồi nợ bị đình trệ, nợ xấu tăng cao, một số khách hàng chây ỳ trả nợ.

Trong công văn vừa gửi Ngân hàng Nhà nước, VNBA cho hay, các công ty tài chính đang phải đối mặt tới tình trạng khách hàng “bùng nợ” tăng cao sau những thông tin cơ quan điều tra khởi tố một số đối tượng đòi nợ "khủng bố", đòi nợ phản cảm. Tính đến  31/12/2022, nợ xấu của các công ty tài chính được ngân hàng Nhà nước cấp phép tăng 23,09% so với thời điểm 31/12/2021 và có xu hướng tăng cao trong thời gian tới.

Theo Hiệp hội Ngân hàng, vừa qua, lực lượng công an đã vào cuộc rất tích cực, góp phần trấn áp tội phạm tín dụng đen, xử lý nghiêm các đối tượng đòi nợ thuê. Tuy nhiên, việc các cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra một số trụ sở, chi nhánh, văn phòng mở rộng của các công ty tài chính do Ngân hàng Nhà nước cấp phép cũng làm ảnh hưởng đến hoạt động của các công ty tài chính.

Đồng thời, việc này cũng dẫn đến hoạt động thu hồi nợ đang bị đình trệ, nợ xấu tăng cao. Một số khách hàng cố tình vin vào những tin tức về các cuộc kiểm tra này để tẩy chay, cho rằng hoạt động thu hồi nợ của các công ty tài chính tiêu dùng này là phạm pháp, chây ỳ việc trả nợ và có hành vi thách thức nhân viên thu hồi nợ khi bị nhắc nợ nhiều lần.

Tỷ lệ khách vay "không trả nợ" ngày càng cao; trong khi đó, chế tài với khách hàng này chưa có và việc khởi kiện lại khó thực hiện với các khoản nợ giá trị thấp.  

Công an quận 1 tới kiểm tra Công ty tài chính Shinhan.

Bên cạnh đó, nhân viên thu hồi nợ của công ty tài chính bị ảnh hưởng tâm lý về việc bị đe dọa ngược từ khách hàng, hoang mang, lo lắng vì nhiều thông tin trái chiều (bắt bớ, điều tra, từ kiểm tra của cơ quan chức năng). Tỷ lệ nhân sự nghỉ việc cao, tuyển dụng nhân sự khó khăn hơn trước, do nhiều nguyên nhân như định kiến xã hội về công việc, rủi ro tính mạng khi tác nghiệp, tác động của gia đình...

Việc khách hàng chậm trả nợ khiến cho các công ty tài chính tiêu dùng phải tăng chi phí cho hoạt động nhắc nợ, đòi nợ bao gồm vận hành, nhân lực và chi phí pháp lý.

Ngoài ra, theo quy định của cơ quan quản lý, các tổ chức cho vay bắt buộc phải trích lập dự phòng theo tình hình nợ xấu thực tế, làm ảnh hưởng đến khả năng tăng trưởng kinh doanh. Hậu quả là lãi suất cho vay bắt buộc phải được điều chỉnh tăng, tác động tực tiếp đến người đi vay.

Trước khó khăn chồng chất, Hiệp hội Ngân hàng kiến nghị Ngân hàng Nhà nước tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý, xây dựng chính sách, cơ chế quản lý riêng theo đặc thù ngành đối với mảng tài chính tiêu dùng, tạo điều kiện cho công ty tài chính có môi trường hoạt động thông thoáng, an toàn và tuân thủ để có thể phát triển mạnh mẽ hơn trong tương lai (ví dụ: quy định tỷ lệ nợ xấu chuẩn cho công ty tài chính ở mức cao hơn để phù hợp với đặc thù phân khúc khách hàng đa số dưới chuẩn, cho vay không có tài sản bảo đảm ...).

Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu xây dựng, ban hành quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của người đi vay đối với tổ chức tín dụng; các chế tài xử phạt với người đi vay cố tình chây ỳ trả nợ. Có giải pháp tăng cường kiểm tra giám sát hoạt động của các công ty tài chính, nhất là việc thu hồi nợ, bán nợ, thuê tư vấn dịch vụ pháp lý... nhằm uốn nắn kịp thời, đồng thời chủ động phối hợp với các cơ quan công an lập đoàn kiểm tra liên ngành đối với những công ty biểu hiện vi phạm.

VNBA cũng đề nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với từng công ty tài chính tiêu dùng trên cơ sở đề nghị của công ty tài chính tiêu dùng, tình hình hoạt động, năng lực tài chính và khả năng tăng trưởng tín dụng lành mạnh, đặc biệt đối với công ty tài chính tiêu dùng đã tham gia các gói tín dụng ưu đãi, góp phần hạn chế tín dụng đen; Xem xét cơ chế hỗ trợ nguồn vốn cho một số công ty tài chính tiêu dùng, chẳng hạn như với các công ty tài chính tiêu dùng hoạt động lành mạnh, an toàn, hiệu quả.

Với Bộ Công an, bên cạnh điều tra, xử lý nghiêm minh đối tượng “tín dụng đen” và tổ chức đòi nợ thuê tín dụng đen, Hiệp hội cũng đề xuất Bộ chỉ đạo công an các đơn vị, địa phương siết chặt công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự có liên quan đến công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động tín dụng đen.

Bên cạnh đó, Hiệp hội cho rằng, cơ quan chức năng khi triển khai các hoạt động kiểm tra, khám xét (nếu có) theo đúng trình tự của pháp luật, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các công ty tài chính được Ngân hàng Nhà nước cấp phép. Đồng thời, thông tin đến người dân về tính chất của các cuộc kiểm tra hành chính, tránh gây hoang mang cho người dân và ảnh hưởng đến tâm lý của người lao động tại chính các công ty tài chính hoạt động tuân thủ theo quy định của pháp luật…

Ngày 19/5 vừa qua, Đội cảnh sát hình sự Công an quận 1, công an các phường trên địa bàn TP.HCM phối hợp kiểm tra Công ty TNHH MTV Shinhan trên đường Tôn Đức Thắng, phường Bến Nghé, quận 1, TP.HCM. Trước đó, hàng loạt công ty tài chính, công ty cầm đồ khác cũng bị kiểm tra. Tuy nhiên, theo thông tin từ Hiệp hội ngân hàng, đến nay, cơ quan chức năng chưa thông báo kết luận.

Kế sách chặn ông chủ tay không lũng đoạn ngân hàng

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang dự định siết chặt các quy định về sở hữu ngân hàng của cá nhân hoặc nhóm cá nhân. Tuy nhiên, giải pháp này được cho là không có nhiều tác dụng với chống sở hữu chéo ngân hàng.

Luật bị vô hiệu từ những tập đoàn ma trận sân sau

Hàng loạt quy định theo hướng siết chặt sở hữu chéo ngân hàng đang được NHNN đề xuất sửa đổi trong Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) sẽ được trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV. Theo đó, đáng chú ý là tỷ lệ sở hữu tối đa của một cá nhân từ mức 5% vốn điều lệ ngân hàng sẽ giảm xuống còn 3%. Sở hữu của một cổ đông là tổ chức, giảm từ mức 15% hiện tại xuống còn 10%,  của nhóm cổ đông và người liên quan cũng được đề xuất giảm từ 20% xuống 15%.

Mục đích của NHNN khi bổ sung các quy định này là nhằm xử lý hiệu quả tình trạng sở hữu chéo, hạn chế lạm dụng quyền cổ đông lớn, quyền quản trị, điều hành để thao túng hoạt động của tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, ngay cả khi các quy định này được thông qua, giới chuyên gia cho rằng, các tập đoàn sân sau vẫn dễ bề lũng đoạn ngân hàng thông qua hàng trăm công ty con để “lách” các quy định.

Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế nhận định, trên thực tế, các quy định về ngăn sở hữu chéo và tăng tính đại chúng của một ngân hàng ở nước ta đã đáp ứng được thông lệ quốc tế. Tuy vậy, trên thực tế, các quy định này chưa đủ để ngăn sở hữu chéo ngân hàng. Nguyên nhân là khâu thanh tra giám sát ở Việt Nam còn quá yếu và cấu trúc sở hữu ngân hàng ở nước ta quá phức tạp.

“Ở các nước, tình trạng sở hữu chéo ngân hàng được kiểm soát khá tốt vì cấu trúc sở hữu minh bạch. Thứ nhất, các tập đoàn nước ngoài doanh thu hàng trăm tỷ USD, song cũng chỉ sở hữu vài ba công ty con, trong khi các tập đoàn của Việt Nam có tới hàng trăm công ty con (ví dụ Vạn Thịnh Phát có 762 công ty liên quan). Thứ hai, ở các nước không có chuyện liên kết sở hữu để thành nhóm sở hữu như ở Việt Nam. Ở nước ta, tình trạng này rất phổ biến: bố nắm 5% vốn, mẹ 5% vốn, rồi con cháu, họ hàng… tổng cộng lại chiếm 50-60% vốn ngân hàng. Thậm chí, có những cá nhân không nắm giữ cổ phần ngân hàng, song vẫn chi phối, lũng đoạn ngân hàng”, TS. Lê Xuân Nghĩa chỉ ra thực trạng.

Tình trạng các tập đoàn sân sau - đặc biệt là các tập đoàn bất động sản - sở hữu ngân hàng luôn là vấn đề nhức nhối của hệ thống ngân hàng nước ta trong thời hàng chục năm qua. 

Ông Phạm Xuân Hòe, chuyên gia kinh tế cũng cho rằng, mặc dù NHNN đã có quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phần để chống sở hữu chéo, song thời gian qua, có tình trạng cá nhân không sở hữu cổ phần nào của ngân hàng song vẫn có thể chi phối ngân hàng.

“Sở hữu chéo như ma trận, biến ngân hàng thành kênh huy động vốn cho các đại gia thao túng thị trường. Đáng lo nhất là ma trận các công ty con được thành lập để mua lại trái phiếu ngân hàng tăng vốn cấp 2 - nguồn vốn để mua trái phiếu ngân hàng lại chính từ vốn vay ngân hàng đó - giúp ngân hàng tăng vốn ảo. Chính vì vậy, nhiều ngân hàng có bề ngoài rất đẹp, nhưng thực tế đang ủ bệnh, không biết là bục ra lúc nào”, ông Hòe nhận xét.

Mặc dù Luật Các tổ chức tín dụng đã có quy định về cho vay với người liên quan, tránh ông chủ vay tiền cho các công ty con. Dù vậy, các chuyên gia cho rằng, các tập đoàn sân sau dễ dàng lách quy định “người liên quan” bằng việc thành lập hàng trăm công ty con để rút ruột ngân hàng.

Siết tỷ lệ sở hữu khó chống sở hữu chéo

Do cấu trúc sở hữu ngân hàng ở nước ta rối rắm, thiếu minh bạch, các chuyên gia cho rằng, việc NHNN dự định giảm tỷ lệ sở hữu của một cá nhân từ mức 5% hiện nay xuống còn 3% là không có nhiều ý nghĩa trong ngăn chặn sở hữu chéo. Thậm chí, việc siết chặt sẽ càng làm ma trận này trở nên luồn lách, khó nhận diện.  

Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI cho rằng, “thắt” thêm tỷ lệ sở hữu không phải là biện pháp trọng yếu để ngăn sở hữu chéo. 

Thứ nhất, tỷ lệ sở hữu của cổ đông và nhóm cổ đông trong luật hiện nay đã là cập nhật, phù hợp thông lệ quốc tế. Thực tế, nếu cổ đông và nhóm cổ đông sở hữu không quá 20% vốn ngân hàng như quy định hiện nay, không ai có thể chi phối được quyền cấp tín dụng của ngân hàng. Song tại nhiều ngân hàng, nhóm cổ đông vẫn sở hữu quá 50% vốn ngân hàng, làm khuynh đảo ngân hàng.

Thứ hai, hiện nay, một số quốc gia chấp nhận mức độ sở hữu của một tổ chức với ngân hàng rất cao, bởi họ xác định “sở hữu không phải là vấn đề”, mà “giám sát cho vay mới là vấn đề”.

Ông chủ sở hữu 70% vốn ngân hàng mà chỉ đạo cho vay đúng thì vẫn không nguy hiểm bằng việc ông chủ sở hữu 5% vốn ngân hàng, nhưng lại cho vay sai nguyên tắc. Vì vậy, NHNN cần có cơ chế để giám sát hành vi cho vay sai trái, đồng thời tăng chế tài xử phạt. 

Theo các chuyên gia, hiện nay, rất nhiều ông chủ ngân hàng đồng thời là ông chủ của các tập đoàn bất động sản đang sở hữu hàng trăm công ty con. Thông qua mạng lưới công ty này, lãnh đạo ngân hàng - cũng là cổ đông lớn và là ông chủ sân sau - đã phê duyệt các gói tín dụng vượt quy định. Đồng thời, các công ty con mặc sức phát hành trái phiếu bán cho ngân hàng, rút ruột ngân hàng.

Nói cách khác, tỷ lệ sở hữu cổ phần chỉ là bề nổi của tảng băng chìm. Tỷ lệ sở hữu thực được che dấu trong lớp băng ngầm ma trận công ty con và hệ sinh thái chằng chịt. Cho đến nay, chưa có quy định nào để kiểm soát các tập đoàn có mối liên hệ mất thiết với ngân hàng.

Mấu chốt ở khâu thanh tra, giám sát

Quy định trong luật đã đạt thông lệ quốc tế, nhưng sở hữu chéo ngân hàng ở nước ta vẫn tồn tại dai dẳng, theo các chuyên gia là do khâu thanh tra, giám sát yếu và chế tài xử phạt chưa nghiêm.

“Cơ quan thanh tra giám sát của NHNN không có chức năng điều tra. Vì vậy, có thể họ biết một tập đoàn kinh tế thành lập hàng trăm công ty con là nhằm mục đích gì, nhưng họ không thể điều tra vì không có chức năng. Theo tôi, Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) cần cho phép cơ quan thanh tra, giám sát NHNN có chức năng điều tra ban đầu, khi đó họ mới có thể phát hiện ra bằng chứng và chuyển hồ sơ sang công an. Không chỉ Vạn Thịnh Phát, hiện có rất nhiều tập đoàn sân sau của ngân hàng sở hữu hàng chục, hàng trăm công ty con. NHNN cần phải có chức năng điều tra mới có thể sớm phát hiện, còn để khi ngân hàng bị kiểm soát đặc biệt, công an điều tra thì đã quá muộn để cứu”, TS. Lê Xuân Nghĩa bình luận.

Ngoài tăng quyền cho cơ quan thanh tra giám sát, nhiều chuyên gia kinh tế cũng cho rằng, Việt Nam cần tham khảo cách làm của các nước trong ngăn sở hữu chéo ngân hàng. Đơn cử, hiện nay một số nước cấm quyền biểu quyết nếu giữa ngân hàng và công ty con có quan hệ sở hữu chéo. Bên cạnh đó, một số nước phạt rất nặng nếu ngân hàng vi phạm các quy định về cho vay, mức phạt có thể lên tới hàng tỷ USD.

TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế cho rằng, sở hữu chéo ở nước ta hiện nay không còn phổ biến như giai đoạn trước đây. Sau khi Luật Các tổ chức tín dụng được sửa đổi, NHNN siết mạnh thanh kiểm tra, sở hữu chéo đã giảm khá mạnh từ năm 2019. Hiện nay, sở hữu chéo chỉ còn tồn tại ở một số ngân hàng nhỏ, trung bình. Về cơ bản, những ngân hàng này đã được cơ quan giám sát nhận diện và khoanh vùng để xử lý. Để giảm thiểu sở hữu chéo, đầu tiên là phải có các quy định pháp luật đủ mạnh. NHNN đang sửa Luật Các tổ chức tín dụng trong đó có cả một chương về giảm rủi ro liên quan tới sở hữu chéo. Như vậy, động thái chính sách của nhà điều hành là rất mạnh tay. Tuy nhiên, quá trình thực thi mới là vấn đề. Quá trình thực thi phải công khai, minh bạch thì chống sở hữu chéo mới có hiệu quả.

Thống đốc giải thích lý do chậm trễ tăng vốn cho Agribank

Thống đốc cũng cho rằng, nếu được đầu tư bổ sung vốn 17.100 tỷ đồng, doanh thu và lợi nhuận hàng năm của Agribank sẽ tăng thêm khoảng 6.500 – 7.000 tỷ đồng, nộp ngân sách tăng 1.200 - 1.400 tỷ đồng/năm.

Chiều nay (22/5), Quốc hội đã nghe Thống đốc Nguyễn Thị Hồng đọc tờ trình của Chính phủ về chủ trương đầu tư bổ sung vốn điều lệ cho Agribank.

Theo Phương án đầu tư bổ sung vốn điều lệ cho Agribank giai đoạn 2021-2023 của Chính phủ, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) của Agribank tại thời điểm cuối năm 2021 chỉ đạt 7%, không đáp ứng yêu cầu tối thiểu của NHNN (8%). Để đạt CAR ở mức 8%, Agribank - đã xác định nhu cầu vốn tự có đến 31/12/2023 phải đạt: 136.300 tỷ đồng (tương ứng với quy mô tổng tài sản Có rủi ro đến 31/12/2023 dự kiến 1.703.283 tỷ đồng, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8%). Ngoài ra, Agribank cũng xác định vốn tự có dự kiến giảm trong giai đoạn 2021-2023 là 11.580 tỷ đồng (chủ yếu do giảm giá trị trái phiếu tính vào vốn tự có cấp 2).

Để đảm bảo nhu cầu vốn tự có theo Thông tư số 41/2016/TT-NHNN đến 31/12/2023 và bù đắp phần vốn tự có giảm trong giai đoạn 2021-2023, Agribank xác định vốn tự có phải bổ sung trong giai đoạn này là: Vốn tự có Agribank tự bổ sung theo quy định của pháp luật (từ trích lập các Quỹ theo chế độ tài chính của TCTD trong năm 2022, 2023; từ lãi trái phiếu đặc biệt của Chính phủ, từ dự phòng chung; từ phát hành trái phiếu tăng vốn cấp 2) khoảng 29.700 tỷ đồng.

Số vốn tự có thiếu hụt còn lại, Agribank đề xuất được cấp bổ vốn điều lệ từ ngân sách nhà nước: 17.100 tỷ đồng, tương ứng số lợi nhuận còn lại dự kiến nộp ngân sách nhà nước trong giai đoạn 2021-2023.

Vậy 17.100 tỷ đồng này sẽ được cấp cho Agribank từ nguồn nào?

Tờ trình của Chính phủ cho biết, trong 17.100 tỷ đồng này, nguồn từ dự toán chi ngân sách trung ương năm 2023 đã được Quốc hội phê duyệt - tại Nghị quyết 70/2022/QH15 ngày 11/11/2022 là 6.753 tỷ đồng. Phần còn lại (10.347 tỷ đồng) được bố trí từ nguồn ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật và thực hiện chuyển cấp trong năm 2024.

Theo tờ trình của Chính phủ, số tiền 17.100 tỷ đồng là tương ứng với phần lợi nhuận còn lại Agribank nộp Ngân sách nhà nước (NSNN) trong giai đoạn 2021-2023.

Thực tế, năm 2021 và năm 2022 Agribank đã nộp NSNN phần lợi nhuận còn lại sau trích lập các quỹ với tổng số tiền: 10.457 tỷ đổng. Năm 2023, lợi nhuận trước thuế của Agribank dự kiến đạt 26.200 tỷ đồng, tăng 19% so với thực hiện năm 2022. Theo đó, dự kiến lợi nhuận còn lại (sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp và trích lập các quỹ) nộp NSNN là 8.600 tỷ đồng. Hiện, số lợi nhuận còn lại đã nộp NSNN Quý I/2023: 2.872 tỷ đồng.

Như vậy, lợi nhuận còn lại (sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp và trích lập các quỹ) Agribank đã nộp NSNN từ năm 2021 đến hết Quý I/2023 là 13.329 tỷ đồng' và dự kiến nộp trong giai đoạn 2021-2023 là 19.057 tỷ đồng", lớn hơn đề xuất cấp bổ sung vốn điều lệ cho Agribank nên đề xuất này hoàn toàn khả thi.

Trong báo cáo Thẩm tra về quyết định chủ trương đầu tư bổ sung vốn điều lệ cho Agribank công bố cách đây vài ngày, Ủy ban kinh tế quốc hội cho rằng, Quốc hội đã có Nghị quyết số 43/2022/QH15 và Chính phủ sau đó cũng đã có Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/1/2022 trong đó có giao NHNN “Chủ trì, phối hợp với Bộ tài chính trình Chính phủ xem xét, báo cáo Quốc hội phương án tăng vốn điều lệ cho ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn từ nguồn ngân sách nhà nước trong quý I/2022”. Tuy nhiên, đến nay, Chính phủ mới trình Quốc hội là quá chậm. Cơ quan thẩm tra đề nghị Chính phủ làm rõ nguyên nhân, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc chậm triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về nội dung này.

Trong tờ trình chiều nay, Thống đốc đã nêu rõ nguyên nhân gây ra sự chậm trễ này. Theo đó, quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ này có chậm hơn so với kế hoạch do một số nguyên nhân.

Thứ nhất, ở giai đoạn đầu, các Bộ phải rà soát tìm kiếm nguồn vốn đầu tư phù hợp do việc đầu tư bổ sung vốn điều lệ cho Agribank không thuộc đối tượng của Luật Đầu tư công;

Thứ hai, qquá trình xây dựng dự toán NSNN năm 2023, Bộ Tài chính đã bố trí được nguồn trong kế hoạch NSNN để bổ sung vốn điều lệ cho Agribank số tiền 6.753 tỷ đồng từ nguồn chi đầu tư phát triển thuộc NSNN trung ương và đã được Quốc hội đồng ý thông qua nội dung này tại Nghị quyết số 70/2022/QH15 ngày 11/11/2022. Sau khi kế hoạch NSNN năm 2023 được phê duyệt, Bộ Tài chính đã thông báo và hướng dẫn NHNN về nguồn đầu tư bổ sung vốn điều lệ cho Agribank giai đoạn 2021-2023 (Công văn số 12736/BTC-TCNH).

Tuy vậy, quá trình thực hiện quyết định đầu tư, giải ngân 6.753 tỷ đồng, lại gặp vướng mắc do theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 5 Điều 9 Nghị định  91/2015/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung), Phương án đầu tư bố trí vốn điều lệ phải được xây dựng tối thiểu trong thời hạn 03 năm kể từ năm xác định điều chỉnh vốn điều lệ. Theo tính toán của Agribank, số vốn điều lệ cần được NSNN đầu tư bổ sung cho Agribank giai đoạn 2021-2023 là 17.100 tỷ đồng. Mức vốn bổ sung này tương đương với mức vốn của Dự án quan trọng quốc gia, do đó phải thực hiện trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư trước khi thực hiện quyết định đầu tư và giải ngân theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, các đơn vị liên quan cũng gặp khó khăn, chưa có tiền lệ khi việc bô vốn phụ thuộc vào số tiền Agribank ước tính sẽ nộp trong năm 2022, sung 2023 (ở thời điểm xây dựng Phương án, mới chỉ có số liệu thực nộp của năm 2021).

Theo đánh giá của Chính phủ, với số vốn điều lệ tăng thêm, Agribank sẽ sử dụng đầu tư cơ sở vật chất, mở rộng hoạt động tín dụng, tăng nộp ngân sách Nhà nước, giữ được mức xếp hạng tín nhiệm…

Cụ thể, tăng trưởng tín dụng của Agribank sẽ tặng thêm bình quân khoảng từ 100.000 – 110.000 tỷ đồng/ năm, tương ứng với tổng tài sản tăng thêm 110.000 tỷ đồng/năm, doanh thu hàng năm và lợi nhuận hàng năm tăng thêm khoảng 6.500 – 7.000 tỷ đồng. Theo đó, Agribank sẽ tăng nộp NSNN tương ứng 1.200 – 1.400 tỷ đồng thuế thu nhập doanh nghiệp, khoảng 2.000 – 2.200 tỷ đồng lợi nhuận còn lại; trích lập các quỹ tăng thêm khoảng 2.000 tỷ đồng.

Ngoài ra, tăng vốn thêm 17.100 tỷ đồng cũng giúp Agribank đạt hệ số CAR 8% theo quy định của Luật các TCTD, Thông tư 41/2016/TT-NHNN; Gia tăng giá trị doanh nghiệp cho Agribank, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình cổ phần hóa và tăng giá trị thặng dư cổ phần hóa. Đồng thời, đảm bảo duy trì và phát huy vai trò chủ lực của Agribank trong đầu tư phát triển tam nông, thực thi chính sách tiền tệ và điều hành của Chính phủ, NHNN trong định hướng giảm mặt bằng lãi suất huy động, lãi suất cho vay, hình thành mặt bằng lãi suất phù hợp, ổn định trên thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân trong sản xuất kinh doanh, góp phần tăng trưởng kinh tế…

Tin liên quan
Tin khác