Ảnh minh hoạ. |
Thông tin trên được Ngân hàng nhà nước nêu tại báo cáo gửi Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội, phục vụ thẩm tra tình hình kinh tế, xã hội trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5 (khai mạc ngày 22/5 tới).
Trong số 4 ngân hàng nói trên có 3 ngân hàng mua bắt buộc (CBBank, OceanBank, GPBank). Tình hình hoạt động của các ngân hàng này từng được đề cập trong báo cáo Kiểm toán nhà nước gửi Quốc hội ở nhiệm kỳ trước với số lỗ khủng, gần đây báo cáo tương tự không đề cập.
Ở báo cáo này, Ngân hàng nhà nước cho biết, hiện các nội dung tiếp theo đang được các bên liên quan thực hiện để trình Chính phủ phê duyệt phương án cơ cấu lại các ngân hàng nói trên theo trình tự, thủ tục quy định.
Riêng với Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB), trường hợp được đặt vào diện kiểm soát đặc biệt từ tháng 10/2022, Ngân hàng Nhà nước cho biết đang thực hiện các thủ tục đánh giá tổng thể thực trạng để có cơ sở xây dựng phương án cơ cấu lại ngân hàng này, báo cáo cấp có thẩm quyền phê duyệt.
“Ngân hàng nhà nước đã khẩn trương, tích cực phối hợp với các bộ, ngành triển khai các giải pháp theo quy định pháp luật để bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng và bảo đảm quyền, lợi ích của người gửi tiền; thường xuyên rà soát, theo dõi để kịp thời xử lý các thông tin chưa đúng sự thật, gây hoang mang dư luận. Đến nay, hoạt động của SCB vẫn trong tầm kiểm soát và dần ổn định; không xảy ra tình huống mất an ninh, trật tự trên các địa bàn có chi nhánh, phòng giao dịch của SCB”, báo cáo có đoạn viết.
Đối với hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, theo báo cáo, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục tập trung chỉ đạo các đơn vị trong ngành triển khai các giải pháp nhằm tăng cường củng cố hệ thống này. Trong đó, chỉ đạo ngân hàng nhà nước chi nhánh theo dõi, kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động của hệ thống; triển khai quyết liệt phương án xử lý các quỹ yếu kém, quỹ được kiểm soát đặc biệt.
Hướng xử lý còn là xem xét cho phép thí điểm việc xử lý pháp nhân các quỹ yếu kém, quỹ được kiểm soát đặc biệt có quy mô nhỏ (lượng tiền gửi và người gửi tiền ít) quỹ không còn tiền gửi hoặc có tiền gửi trong hạn mức chi trả của bảo hiểm tiền gửi thông qua phương án phá sản sau khi đã đánh giá đầy đủ tác động và nguy cơ ảnh hưởng đến an ninh chính trị và an toàn hệ thống.
Về xử lý nợ xấu, theo Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ nợ xấu nội bảng đến cuối năm 2022 ở mức 2%. Song cuối tháng 2/2023 đã tăng lên 2,91%, tăng 0,91% so với cuối 2022 và gần gấp đôi cuối năm 2021 (1,49%).
Mặc dù theo báo cáo của các ngân hàng, tỷ lệ nợ xấu nội bảng được kiểm soát dưới 3%, nhưng Ngân hàng Nhà nước qua rà soát cho rằng, một số khoản nợ chưa phải là nợ xấu nhưng có nguy cơ chuyển nhóm nợ, như các khoản được cơ cấu lại và giữ nguyên nhóm, đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp với mục đích cơ cấu lại nợ hay các khoản phải thu khó đòi, lãi dự thu phải thoái.
Do đó, cần ghi nhận những khoản này để có giải pháp quản lý, xử lý nhằm ngăn ngừa nguy cơ chuyển nợ xấu trong tương lai. Trên nguyên tắc đó, Ngân hàng nhà nước xác định tổng nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và nợ tiềm ẩn thành nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng đến cuối tháng 2/2023 ước chiếm tỷ lệ 5% so với tổng dư nợ.