Nhân viên Viettel lắp đặt trạm phát sóng 5G |
Chiến lược giúp các nhà mạng tăng trưởng
“Triển khai thương mại hóa 5G” là chủ trương được Bộ Thông tin và Truyền thông khẳng định trong kế hoạch năm 2024. Cùng với đó, Bộ cũng đang triển khai đấu giá băng tần 2600/3700 MHz cho 5G, thực hiện cấp lại giấy phép băng tần 900/1800/2100 MHz cho các doanh nghiệp thông tin di động.
Trong các cuộc làm việc với 3 nhà mạng Viettel, VNPT, MobiFone, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh, đầu tư cho 5G là chiến lược giúp các nhà mạng tăng trưởng trong bối cảnh doanh thu truyền thống sụt giảm.
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng dẫn câu chuyện của China Mobile (Trung Quốc), một năm, doanh nghiệp này chi tới 4 tỷ USD (tương đương 3 - 4% tổng doanh thu) để phát triển ứng dụng cho các ngành, nhất là ngành công nghiệp. China Mobile đã phát triển được hơn 30.000 ứng dụng 5G công nghiệp, nhờ đó, tăng trưởng doanh thu hàng năm của nhà mạng này đạt trên 10%.
Thị trường ứng dụng 5G toàn cầu dự báo đạt tới 670 tỷ USD vào năm 2025, tức là giúp doanh thu của các nhà mạng tăng tới trên 50% so với năm 2020, trung bình mỗi năm tăng 10%. Đây là không gian mới rất quan trọng của các nhà mạng.
“Chúng ta phải chú ý, không có 5G, thì không có tăng trưởng 10% mỗi năm, nhưng tăng trưởng 10% thì không chỉ là 5G, mà là một hệ sinh thái ứng dụng 5G”, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh
Theo phân tích của Bộ trưởng, một nhà mạng muốn phát triển bền vững, thì mỗi năm phải đầu tư 15 - 20% doanh thu cho mạng lưới. Ví dụ, VNPT, Viettel chi đầu tư cho mạng lưới 10.000 - 15.000 tỷ đồng/năm. Một số nhà mạng tại Việt Nam những năm gần đây đầu tư ít, nên chất lượng mạng lưới chưa thật tốt. Một mạng di động chất lượng tốt, dung lượng lớn, phủ sóng sâu, tốc độ cao, thì bình quân 1.000 dân có một trạm phát sóng, nhưng ở Việt Nam hiện nay, với mạng di động tốt nhất, thì bình quân 2.000 dân mới có một trạm phát sóng. Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng khuyến nghị, các nhà mạng cần đầu tư mạnh hơn nữa để nâng cao chất lượng mạng lưới, nhất là khi triển khai 5G.
Lợi thế của 5G là có thể chia sẻ hạ tầng BTS (trạm thu phát sóng di động), nên giải pháp cho nhà mạng muốn giảm chi phí đầu tư là gộp tần số với một doanh nghiệp khác.
Nếu như với mạng 2G, 3G và 4G, khách hàng của các nhà mạng chủ yếu là người dân (mô hình B2C), thì với 5G, khách hàng lại chủ yếu là doanh nghiệp (mô hình B2B). Vì vậy, yêu cầu đặt ra với các nhà mạng là phải sáng tạo ra những sản phẩm, dịch vụ mới dựa trên công nghệ 5G để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp, các ngành.
Kế hoạch 5G của các nhà mạng
Trong năm 2023, Viettel đã hoàn thành nghiên cứu, sản xuất và thử nghiệm diện rộng hệ sinh thái sản phẩm 5G cả phần cứng và phần mềm, đưa Việt Nam vào top 5 quốc gia đầu tiên làm chủ công nghệ 5G. Viettel đã công bố nghiên cứu thành công chip 5G DFE (là thành phần phức tạp nhất của hệ sinh thái 5G, với khả năng tính toán lên tới 1.000 tỷ phép tính/giây), đánh dấu bước tiến đột phá trong ngành công nghiệp bán dẫn của Việt Nam. Kết quả đo kiểm cho thấy, thiết bị 5G do Viettel sản xuất đáp ứng đầy đủ chỉ tiêu kỹ thuật tương đương thiết bị của nhiều hãng cung cấp dịch vụ toàn cầu.
Dịch vụ 5G đã được Viettel triển khai thử nghiệm với gần 500 trạm tại 63 tỉnh, thành phố. Viettel cũng đã triển khai mạng di động 5G dùng riêng trong thực tế.
Tháng 12/2023, Bộ Thông tin và Truyền thông công bố quyết định về việc công nhận một số sản phẩm do Viettel nghiên cứu, sản xuất thuộc danh mục sản phẩm công nghệ thông tin trọng điểm, gồm thiết bị mạng viễn thông 5G (mạng thu phát sóng vô tuyến 5G gNodeB, mạng lõi, thiết bị truyền dẫn) và chip xử lý trong thiết bị 5G.
Thiếu tướng Tào Đức Thắng, Chủ tịch, kiêm Tổng giám đốc Viettel cho biết, trong năm 2024, mục tiêu của Tập đoàn là tiếp tục nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài; duy trì vị thế số 1 về thị phần data center và cloud; chính thức công bố hệ sinh thái thiết bị 5G do Viettel sản xuất và đẩy mạnh kinh doanh ra quốc tế; phát triển sản phẩm thiết bị năng lượng xanh; cung cấp giải pháp toàn diện cho logistics xuyên biên giới và triển khai tuyến vận chuyển đường sắt liên vận Việt Nam - Trung Quốc.
MobiFone cũng đã triển khai thử nghiệm 5G ở TP.HCM, Huế, Nha Trang, Phú Quốc... Quá trình thử nghiệm đã cung cấp những cơ sở dữ liệu ban đầu để nhà mạng đánh giá và xây dựng các phương án mở rộng mạng lưới trong tương lai.
Cùng với đó, MobiFone đang tích cực triển khai công tác chuẩn bị, đảm bảo các điều kiện để sẵn sàng cho việc thương mại hóa 5G theo chỉ đạo của Bộ Thông tin và Truyền thông, như tham gia đấu giá băng tần; đầu tư thiết bị phát sóng, vùng phủ sóng; xây dựng các chương trình, kịch bản kinh doanh, phát triển các sản phẩm tận dụng sức mạnh của 5G.
“MobiFone tiếp tục đẩy mạnh triển khai kinh doanh 5G, mục tiêu phát sóng tối thiểu 1.000 trạm 5G trong năm 2024”, ông Nguyễn Hồng Hiển, Chủ tịch Hội đồng Thành viên MobiFone chia sẻ.
Với VNPT, việc triển khai 5G cũng là mối quan tâm hàng đầu, bởi đây là nội dung trọng yếu trong hành trình phát triển và trong chiến lược của VNPT, với định hướng chuyển từ nhà cung cấp dịch vụ viễn thông truyền thống sang nhà cung cấp dịch vụ giải pháp số. VNPT đã triển khai thử nghiệm 5G từ sớm, thông qua sự hiện diện ở gần 20 tỉnh, xuất hiện ở các sự kiện, lễ hội, phục vụ du lịch. Bên cạnh đó, nhà mạng này cũng đã chuẩn bị các phương án về hạ tầng, mạng core… để triển khai 5G nhanh nhất, có hiệu quả. Sắp tới, khi có tần số, VNPT sẽ triển khai thêm hạ tầng vô tuyến.
Ông Tô Dũng Thái, Chủ tịch Hội đồng Thành viên VNPT nhìn nhận, vấn đề khó nhất đối với các nhà mạng khi triển khai 5G là phương án kinh doanh hiệu quả, chứ không phải tần số hay hạ tầng.
“Triển khai 5G đòi hỏi đầu tư lớn, nhưng có doanh thu, có lợi nhuận hay không là câu hỏi khó, không chỉ với VNPT, mà với tất cả các nhà mạng”, ông Thái nói.