Song, ngay sau khi nhậm chức, chính quyền của tân Tổng thống Mỹ Donald Trump đã sớm phát đi thông cáo cho biết nước Mỹ sẽ rút khỏi TPP.
Với câu hỏi "Mỹ rút khỏi TPP sẽ ảnh hưởng gì tới Việt Nam và những vấn đề đặt ra cho tiến trình hội nhập của Việt Nam trong thời gian tới," những chia sẻ dưới đây của Thứ trưởng Bộ Công Thương kiêm Tổng Thư ký Ban chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế Đỗ Thắng Hải với phóng viên sẽ làm rõ hơn về vấn đề này.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải |
Ngay sau khi nhậm chức, tân Tổng thống Mỹ thông báo rút khỏi TPP. Xin Thứ trưởng cho biết điều này ảnh hưởng thế nào đến quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam?
Việt Nam đã và đang thực hiện chủ trương tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Chúng ta đã nỗ lực đàm phán để kết thúc TPP với một số mục tiêu chính bao gồm cải cách thể chế kinh tế; tiếp cận các nguồn lực bên ngoài cần thiết cho chủ trương tái cơ cấu và tăng trưởng bền vững; mở rộng thị trường xuất khẩu nhờ giảm thuế và tiếp cận cơ hội tham gia các chuỗi cung ứng…
TPP chưa có hiệu lực chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến những mục tiêu này. Tuy nhiên, mặc dù rất quan trọng nhưng TPP chỉ là một khuôn khổ hợp tác nhiều bên mà chúng ta mong muốn tham gia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Tôi cho rằng, việc có TPP hay không sẽ không làm thay đổi xu thế và định hướng hội nhập của Việt Nam. Điều này có thể có tác động nhất định đến các kế hoạch ngắn hạn, nhưng không làm thay đổi các mục đích dài hạn trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Đổi mới và cải cách thể chế kinh tế là nhu cầu tất yếu và là chủ trương của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng gần đây hay Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020 của Chính phủ đều coi cải cách thể chế kinh tế là một trong ba đột phá chiến lược.
Do đó, không phải vì tham gia TPP mà chúng ta bị ép phải cải cách bởi TPP chỉ là một xúc tác giúp rút ngắn khoảng thời gian cải cách. TPP không còn thì chúng ta vẫn tiếp tục chủ động xây dựng hoàn thiện hệ thống thể chế.
TPP vốn được kỳ vọng sẽ tạo thuận lợi cho việc tiếp cận các nguồn lực và thị trường bên ngoài, đặc biệt là từ Mỹ, cần thiết cho phát triển và tăng trưởng bền vững của Việt Nam. Với việc không có TPP, việc thực hiện mục tiêu đó rõ ràng sẽ khó khăn hơn.
Mặc dù hiệp định chưa được thực thi nhưng xét về tiềm năng lâu dài thì xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài của ta sẽ bị ảnh hưởng. Nhưng tôi tin, chúng ta sẽ có kế hoạch điều chỉnh để phù hợp với bối cảnh mới, cả ở cấp vĩ mô, cả ở từng doanh nghiệp hay mỗi thành phần khác nhau của nền kinh tế.
Hơn nữa, nhu cầu tăng cường khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn nội lực trong nước và các nguồn lực khác càng trở thành một yêu cầu bắt buộc khi hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
Xét cả về cấp độ phạm vi và quy mô hội nhập, TPP là một hiệp định thương mại tự do (FTA) quan trọng nhưng không phải là duy nhất. Ngoài TPP, Việt Nam còn có 10 FTA khác đã ký và đã có hiệu lực, 4 FTA đang đàm phán và 1 FTA đã kết thúc đàm phán nhưng chưa ký kết.
Các FTA này bao gồm hầu như tất cả các đối tác thương mại chính của Việt Nam (như ASEAN, EU, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc, Hàn Quốc, Australia…).
Đối với Mỹ, quan hệ thương mại và đầu tư song phương lâu nay vẫn được điều chỉnh bởi Hiệp định thương mại song phương Việt Nam-Mỹ (BTA), Hiệp định khung Thương mại và Đầu tư (TIFA) và các cam kết WTO.
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế về cơ bản đã đạt được những kết quả tích cực và dài hạn. Cùng với đó, tiến trình hội nhập cũng đối diện với nhiều thay đổi. Vậy theo Thứ trưởng những vấn đề đặt ra cho tiến trình hội nhập trong thời gian tới là gì trong bối cảnh không có TPP?
Chủ động, tích cực tham gia vào nền kinh tế toàn cầu đã giúp Việt Nam thúc đẩy cải cách kinh tế và thể chế trong nước; tăng cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, mở rộng thị trường xuất khẩu; cải thiện môi trường kinh doanh và hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Nhiều sản phẩm của Việt Nam đã xác lập được chỗ đứng và có khả năng cạnh tranh quốc tế như hàng dệt may, điện tử, một số sản phẩm nông sản (gạo, càphê, hạt tiêu...).
TPP được kỳ vọng là một nhân tố mới cho phát triển kinh tế của Việt Nam. Không có TPP (hoặc trì hoãn thời điểm có hiệu lực) có thể làm giảm động lực cho tăng trưởng. Nhưng điều đó không có nghĩa là nền kinh tế và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế không còn chỗ đi tiếp.
Ngay từ khi quá trình đàm phán đang tiến hành, TPP đã tạo ra một "mômen" theo hướng cải cách và hoàn thiện thể chế, thu hút vốn đầu tư, tác động tích cực đến thị trường lao động, đến các yếu tố sản xuất và khu vực kinh tế Nhà nước, nâng cao năng lực cạnh tranh. Quá trình này vẫn tiếp tục diễn ra dù không có TPP.
Hơn nữa, lợi thế tương đối về chi phí sản xuất, ưu thế vị trí địa lý, bối cảnh địa chính trị, những hiệp định thương mại khác với các nền kinh tế lớn (như Liên minh kinh tế Á-Âu, Liên minh châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc…) mà Việt Nam ký kết hoặc đã hoàn tất đàm phán vẫn tiếp tục là những động lực quan trọng cho phát triển kinh tế-thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài.
Trong hội nhập kinh tế quốc tế, FTA là một trong các phương thức và cấp độ hội nhập kinh tế quốc tế giúp gắn kết các nền kinh tế. Cơ hội cho Việt Nam tham gia các FTA thế hệ mới khác và xem xét các FTA song phương với từng thành viên TPP vẫn còn nguyên.
Tuy ký kết các hiệp định song phương chỉ là một phương án dự bị song trên tinh thần linh hoạt theo tình hình mới thì đó cũng là một khả năng được xem xét.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam vẫn còn những khó khăn. vậy phía Bộ Công Thương có đề xuất, kiến nghị gì để thúc đẩy tiến trình hội nhập trong giai đoạn tới?
Ngày 5/11/2016, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị-xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
Trong quá trình xây dựng dự thảo Nghị quyết, Bộ Công Thương đã đề xuất 6 nhóm giải pháp nhằm phát huy hiệu quả của các FTA.
Các giải pháp nhằm tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức cộng đồng về hội nhập kinh tế quốc tế và việc tham gia các FTA, đặc biệt là các FTA thế hệ mới. Nâng cao hiểu biết và sự đồng thuận của cả xã hội, đặc biệt là của doanh nghiệp, doanh nhân đối với các thoả thuận quốc tế, đặc biệt là cơ hội, thách thức và những yêu cầu phải đáp ứng khi tham gia và thực hiện các FTA thế hệ mới bằng các hình thức, nội dung tuyên truyền phù hợp và hiệu quả cho từng ngành hàng, hiệp hội, doanh nghiệp và cộng đồng.
Tiếp theo là hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao năng lực thực thi pháp luật nhằm phát huy hiệu quả thực thi các cam kết FTA thế hệ mới.
Nâng cao nhận thức và năng lực pháp lý, đặc biệt là luật pháp quốc tế, thương mại quốc tế, trước hết là của cán bộ chủ chốt các ngành và chính quyền các cấp, doanh nghiệp, cán bộ làm công tác tố tụng, đội ngũ luật sư và những người trực tiếp làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế và các ban chỉ đạo liên ngành, đặc biệt là Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế, nhằm tạo sức mạnh tổng hợp trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Cùng với đó, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, từng ngành hàng, từng địa phương và mỗi doanh nghiệp.
Tập trung ưu tiên đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Tiếp tục thực hiện ba đột phá chiến lược; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại; chú trọng phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập của đất nước.
Nâng cao và phát huy hiệu quả uy tín và vị thế quốc tế của Việt Nam để tạo môi trường thuận lợi cho phát triển. Đẩy mạnh và chủ động làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác có tầm quan trọng chiến lược đối với sự phát triển và an ninh của đất nước.
Bên cạnh đó, giải quyết tốt các vấn đề xã hội do tham gia các FTA thế hệ mới. Hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội, đặc biệt về quan hệ lao động và những vấn đề mới phát sinh từ quá trình thực thi các FTA thế hệ mới.
Chủ động xây dựng và thực hiện chính sách bảo đảm trợ giúp xã hội cho các nhóm đối tượng yếu thế hoặc dễ bị tổn thương của quá trình triển khai các FTA thế hệ mới.
Cuối cùng là giải quyết tốt các vấn đề môi trường khi thực thi các cam kết FTA và xem xét tiếp nhận các dự án đầu tư nước ngoài.
Xây dựng, hoàn thiện và thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng và đối với môi trường. Tăng cường quản lý, giám sát, sử dụng hợp lý, hiệu quả, tiết kiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên và gắn với bảo vệ môi trường.
Xin trân trọng cảm ơn Thứ trưởng.