Cục Quản lý Chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản (NAFIQAD), Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, sau khi đã tổng hợp danh sách 45 cơ sở nộp hồ sơ đăng ký XK cá tra sang thị trường Hoa Kỳ cùng với sự đồng ý của Bộ , Cục đã gửi danh sách 45 cơ sở này cho Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA), trong đó có 23 cơ sở đang và tiếp tục xuất khẩu, 22 cơ sở có nhu cầu xuất khẩu. Tuy nhiên, ngày 01/3/2016, Cục Kiểm tra và ATTP (FSIS), thuộc USDA đã công bố trên website danh sách chỉ có 23 cơ sở được phép chế biến xuất khẩu cá và sản phẩm từ cá họ Siluriformes sang Hoa Kỳ. Còn lại 22 cơ sở đang có nhu cầu xuất khẩu chưa được USDA đưa vào danh sách.
Ngày 7/3/2016, NAFIQAF đã gửi Văn bản số 376/QLCL-CL1 đề nghị Cục Kiểm tra và ATTP (FSIS), USDA xem xét, công nhận 22 cơ sở còn lại vào danh sách các DN nước ngoài được phép chế biến xuất khẩu cá và sản phẩm cá họ Siluriformes vào Hoa Kỳ và sẽ có thông báo tới các DN khi có phản hồi từ FSIS.
Vasep cũng lưu ý, 22 DN chưa được USDA đưa vào danh sách đủ điều kiện xuất khẩu sang Mỹ cần gửi hồ sơ, bằng chứng theo hướng dẫn của Cục tại công văn 113/QLCL-CL1 để Cục tổng hợp và gửi đăng ký với FSIS.
Trước đó, ngày 02/12/2015, FSIS đã có công thư gửi NAFIQAD hướng dẫn thực hiện Quy định thanh tra bắt buộc cá và sản phẩm từ cá họ Siluriformes (trong đó có cá tra, basa của Việt Nam XK vào Hoa Kỳ). Theo đó, để việc XK cá tra, basa của Việt Nam vào Hoa Kỳ được tiếp tục trong thời gian chuyển tiếp (từ 01/3/2016 - 31/8/2017), trước ngày 01/3/2016, NAFIQAD cần gửi một số tài liệu pháp lý về việc kiểm soát các sản phẩm cá tra, basa của Việt Nam và danh sách các DN đang và sẽ tiếp tục XK sản phẩm cá thuộc họ Siluriformes vào thị trường Hoa Kỳ.
Thực hiện yêu cầu của FSIS, ngày 19/01/2016, NAFIQAD đã có công văn số 113/QLCL-CL1 thông báo rộng rãi đến các DN đề nghị đăng ký để lập danh sách theo yêu cầu của phía Hoa Kỳ. Tại Công văn 113/QLCL-CL1, Cục đã hướng dẫn các DN rất cụ thể trong việc đăng ký cũng như nộp các hồ sơ, bằng chứng kèm theo để đưa vào danh sách. Sau khi tổng hợp, có tất cả 45 cơ sở đã nộp hồ sơ, trong đó có 23 cơ sở đã gửi đầy đủ hồ sơ về việc đang và sẽ tiếp tục XK như yêu cầu của FSIS thể hiện qua bằng chứng về việc đã XK trong năm 2015 và các hợp đồng với nhà nhập khẩu Hoa Kỳ trong đó có ghi rõ khối lượng và thời gian giao hàng trong năm 2016. 22 cơ sở còn lại được đưa vào phần có nhu cầu XK do không cung cấp các hồ sơ, bằng chứng về việc đang và sẽ tiếp tục XK như hướng dẫn của công văn 113/QLCL-CL1.
Trong các cuộc họp với FSIS, NAFIQAD cũng đã khẳng định cả 45 cơ sở trong danh sách đều đã được Cục kiểm tra, giám sát đảm bảo đủ điều kiện an toàn thực phẩm phù hợp với quy định của Cục Quản lý Dược phẩm và Thực phẩm (FDA) thuộc Bộ Y tế Hoa Kỳ, 22 cơ sở có nhu cầu xuất khẩu cá tra, basa vào Hoa Kỳ hiện đang tích cực tìm đối tác để xuất khẩu trong thời gian tới.
Theo thông báo của FSIS tại các buổi làm việc với các cơ quan của Bộ Nông nghiệp và PTNT Việt Nam, FSIS sẽ chính thức kiểm tra các lô hàng cá tra, basa của Việt Nam nhập khẩu vào Hoa Kỳ từ ngày 15/4/2016 (tính theo ngày lô hàng đến cảng của Hoa Kỳ). Các lô hàng cá tra, basa nhập khẩu vào Hoa Kỳ vi phạm các yêu cầu về ghi nhãn (tên thương mại, khối lượng tịnh) hoặc kết quả kiểm tra điều kiện vệ sinh lô hàng, chỉ tiêu hóa chất kháng sinh không phù hợp quy định của Hoa Kỳ sẽ không được thông quan.
Trong thời gian chuyển tiếp, để kết quả kiểm tra các lô hàng cá tra, basa nhập khẩu từ Việt Nam do FSIS thực hiện không ảnh hưởng đến quá trình đánh giá tương đương sau này, Cục yêu cầu các DN có tên trong danh sách được phép xuất khẩu cá tra, basa sang Hoa Kỳ thực hiện hai điều.
Thứ nhất, chủ động rà soát hệ thống tự kiểm soát chất lượng, ATTP đảm bảo sản phẩm cá tra chế biến XK vào Hoa Kỳ đáp ứng các quy định của thị trường này về hóa chất kháng sinh, kim loại nặng, thuốc trừ sâu, vi sinh vật,… theo quy định tại Final Rules (Tham khảo các chỉ tiêu, giới hạn tối đa cho phép, phương pháp kiểm nghiệm do FSIS thực hiện kiểm tra nhập khẩu từ ngày 15/4/2016 tại Phụ lục 3). Ngoài ra, các DN cần nghiên cứu kỹ các quy định về ghi nhãn tại Mục 541 (Part 541) Final Rule và thông tin về nước xuất xứ, tên và mã số cơ sở sản xuất.
Thứ hai, trong quá trình thực hiện nếu có phát sinh vướng mắc đề nghị các DN gửi văn bản về Cục để được hướng dẫn, phối hợp xử lý