Đó là nhận định của PGS-TS. Vũ Sỹ Cường, Kinh tế trưởng Viện Công nghệ và Phát triển tài chính (Học viện Tài chính).
PGS-TS. Vũ Sỹ Cường, Kinh tế trưởng Viện Công nghệ và Phát triển tài chính (Học viện Tài chính). |
Tổng cục Thống kê vừa công bố chỉ số CPI 11 tháng năm 2021 tăng 1,84% so với cùng kỳ năm trước, là mức thấp nhất kể từ năm 2016. Tình hình có vẻ không đáng lo như những rủi ro lạm phát tăng cao được nhắc đến liên tục gần đây khi giá cả nguyên vật liệu, giá cả thị trường thế giới... tăng cao, thưa ông?
Lạm phát thấp của 11 tháng và cả năm 2021 có thể dự báo trước, lý do là tổng cầu và tổng cung đều giảm. Trong 2 tháng gần đây, chỉ số bán lẻ hàng hóa đều có mức tăng rất thấp, nghĩa là tổng cầu giảm mạnh. Tổng cung cũng giảm do hoạt động kinh tế bị ngưng trệ do tác động của giai đoạn giãn cách kéo dài vừa qua.
Như vậy là không còn nỗi lo lạm phát cao?
Vấn đề đáng ngại bây giờ là lạm phát thấp do trì trệ gây ra, gọi là đình trệ, chứ không phải thấp trong điều kiện kinh tế bình thường. Con số thấp có được là đã có tác động của giá cả đầu vào tăng, nếu không thì có thể ở mức âm.
Sự trì trệ đến từ các hoạt động kinh tế bị ách tắc bởi Covid-19, luân chuyển tiền tệ trong nền kinh tế chậm. Vòng quay của cung tiền giảm mạnh, trước khoảng 2 lần, giờ chỉ còn khoảng dưới 1.
Để giải quyết, nền kinh tế cần phải được trở lại hoạt động bình thường. Hiện tại, một số ngành, lĩnh vực vẫn đang đợi mở cửa, như hàng không, du lịch, hay đang mở cửa với mức độ khác nhau, như giáo dục...
Thưa ông, còn nỗi lo nhập khẩu lạm phát, khi nền kinh tế Việt Nam đang rất mở và tính mùa vụ của lạm phát vào cuối năm? Ông nhìn nhận diễn biến lạm phát tới đây thế nào?
Có rủi ro lạm phát do nhập khẩu lạm phát, do chi phí đẩy khi giá cả nguyên vật liệu thế giới tăng cao. Tính mùa vụ cũng có. Nhưng quan điểm của tôi là khả năng bùng phát lạm phát năm nay không cao, trừ khi có cú sốc nào đó, vì như đã phân tích, cầu trong nước thấp, nên không phát sinh yếu tố cầu kéo gây nên lạm phát.
Trong điều kiện này, Chính phủ có thể có dư địa để đề xuất gói phục hồi và kích thích tăng trưởng lớn hơn, quyết liệt hơn?
Theo tôi, lạm phát không phải là nỗi lo lớn khi xây dựng gói này, mà là nền kinh tế có hấp thụ được không và tiền có chảy vào đúng chỗ không. Bên cạnh đó, nỗi lo lớn hơn là nợ xấu tăng lên.
Ông có đề xuất gì về Chương trình Phục hồi và Phát triển kinh tế mà Chính phủ đang yêu cầu xây dựng?
Quan điểm của tôi là không nhất thiết phải quá lớn, mà là hiệu quả, nghĩa là quy mô lớn hay nhỏ chỉ là một phần, nội dung chính phải là hỗ trợ vào đâu và cách thực hiện thế nào. Đơn cử là hỗ trợ bù lãi suất cho doanh nghiệp, nhưng doanh nghiệp có muốn vay không khi các hoạt động sản xuất - kinh doanh vẫn đang rủi ro với việc đóng - mở, du lịch không có khách hay các nhà hàng, quán ăn có thể bị đóng cửa khi xung quanh có F0...
Mấu chốt là nền kinh tế được hoạt động bình thường, với các kịch bản phòng, chống dịch bệnh rõ ràng, thống nhất ở các ngành, lĩnh vực, chứ không chỉ đơn giản là quy định theo các địa phương. Các bộ, ngành cần phải có kịch bản cho mình, như giáo dục thì ứng xử thế nào với các cấp độ dịch; tương tự là với vận tải...
Các chính quyền địa phương cũng cần được giao chỉ tiêu về việc làm, an sinh xã hội, tăng trưởng kinh tế, thay vì chỉ phòng chống dịch bệnh. Có như vậy, các quyết định đóng hay mở của các địa phương sẽ được cân nhắc theo nhiều góc độ.
Tất nhiên, để làm được, Bộ Y tế cần có những đánh giá cụ thể về tác động của dịch bệnh một cách chi tiết, như nguy cơ lây lan trong nhà trường, nhà xưởng, chung cư... để làm cơ sở cho các quyết định của các ngành khác.
Hiện tại, dù đã có Nghị quyết 128/2021/NQ-CP ban hành quy định tạm thời “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”, nhưng việc thực hiện trên thực tế vẫn chưa cụ thể, rõ ràng và thiếu thống nhất.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải chấp nhận rủi ro khi mở lại các hoạt động kinh tế trên các cơ sở tỷ lệ tiêm chủng, các nghiên cứu, đánh giá tác động của ngành y tế.
Cụ thể, cách thức thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tới đây, theo ông, nên để tâm đến những vấn đề gì?
Mấu chốt là đảm bảo các doanh nghiệp được hoạt động có thể dự báo được các tình huống khi dịch bệnh diễn ra một cách cụ thể, để họ quyết định sẽ làm gì. Nếu không dự báo được, các doanh nghiệp không thể làm gì được, dù có nguồn tiền hỗ trợ.
Về gói hỗ trợ, nên xác định rõ thời gian, có thể trong 2 năm, để các doanh nghiệp cân nhắc, lên kế hoạch kinh doanh.
Về chính sách tài khóa, có thể nghiên cứu một số chính sách hỗ trợ như cho phép doanh nghiệp chuyển lỗ về các năm trước, hoặc kéo dài thời gian chuyển lỗ tới các năm sau, được trừ chi phí với hệ số cao hơn.
Đặc biệt, các chính sách cần được thiết kế để thực thi được ngay. Sự chậm trễ của các gói chính sách 2 năm vừa qua là bài học kinh nghiệm.